THẬT CÓ
THIÊN ĐÀNG
CHĂNG?
THIÊN ĐÀNG
CHĂNG?
Rồi đây, trong đời ta, sẽ có một ngày mà thời gian dừng lại…
Bấy giờ cõi đời đời sẽ bắt đầu.
Nhưng nếu chúng ta đợi cho đến giờ phút đó mới tìm hiểu về nơi mình sẽ đi đến, và đi đến cách nào, thì đã trể mất rồi. Vậy thì không phải là sớm, nếu chúng ta tìm hiểu hôm nay.
Nhưng ai có thể nói cho chúng ta biết về Thiên Đàng?
Còn ai nói cho chúng ta về Thiên Đàng tốt hơn là Đức Chúa Trời, Đấng dựng nên vũ trụ, cũng chính là Đấng dựng nên Thiên Đàng?
Và Ngài đã nói. Trước hết, Ngài đã nói cho chúng ta rằng Thiên Đàng là thực hữu, tức là có thật, bằng:
1. Một tiếng gọi bí mật từ trên cao:
Trong những ngày ngắn ngủi của trần gian, tôi may mắn từng được Thượng Đế cho sống qua hơn một năm bênh cạnh dòng thác lớn Niagara Falls của Canada, và giờ đây lại được sống ở tại vùng Trung Tây của Nước Mỹ, là những nơi không phải chỉ cảnh sắc đẹp tuyệt vời, mà cũng còn là những nơi thiên nhiên đầy huyền bí.
Hằng năm cứ vào độ cuối mùa Thu, khi những lá vàng lá đỏ trên các cành cây đã rụng hết, khi đất trời Phương Bắc đã đổi màu, mặt hồ bắt đầu se lại chuẩn bị đóng băng, thì cũng chính là lúc mà trên không trung vang lên tiếng gọi bí mật.
Một tiếng gọi huyền bí từ trên trời. Một lời nhắc nhở bí mật từ trên cao. Tiếng gọi nầy chạm đến tận nơi sâu thẳm trong lòng sự sống của những con ngỗng trời, thường được gọi là ngỗng trời Canada, làm cho nó xôn xao tỉnh thức.
Rồi thì từng đoàn, và từng đoàn ngỗng trời bổng tỉnh thức, cất tiếng kêu vang khi dời khỏi mặt nước, bay cao lên không trung, nghe theo tiếng gọi di thê. Hướng về phương Nam, có những đoàn dừng lại ở vùng nắng ấm Texas, Louisiana, Georgia, có những đoàn bay đến Bắc Mexico, và có những đoàn còn bay đến tận Đông Nam Nước Mỹ, như Florida.
Đây là những đoàn chim trốn tuyết. Những đoàn chim nầy ra đi rất sớm trước khi tuyết rơi. Hằng năm chúng đều bay đi như thế, để được hưởng mùi nắng ấm phương Nam.
Trong những đoàn chim nầy, có những con chưa hề bao giờ thấy tuyết. Còn những con chim non mới vừa sinh ra trong mùa xuân và lớn lên trong mùa hạ, thì lại càng ít kinh nghiệm hơn. Những con chim nầy chẳng những chưa hề biết đến tuyết, mà cũng chưa hề biết đến những thảm cỏ xanh của phương Nam bao giờ.
Vậy tại sao chúng lại trốn tuyết mà di thê về phương Nam?
Đó là vì có một tiếng nói bí mật đã vang lên cho chúng từ trên trời, tiếng nói đó vang vọng đến sự sống mầu nhiệm của chúng. Tiếng gọi đó mạnh mẽ báo cho chúng rằng sông hồ rồi đây sẽ đóng băng, cỏ cây sẽ phủ tuyết, và tha thiết kêu gọi chúng hãy mau mau di cư về Phương Nam, nơi có mặt trời đang chiếu sáng, suối vẫn chảy róc rách, và cây cỏ vẫn xanh tươi.
Cũng vậy, có một tiếng gọi bí mật từ bên ngoài cuộc đời, vang lên từng hồi từng lúc bên tai ta, vang động đến tận linh hồn ta. Tiếng gọi đó nhắc cho linh hồn ta biết rằng các năm tháng vay mượn của đời ta rồi đây sẽ đáo hạn, những ngày vàng xâu bằng dây bạc rồi ra chẳng còn nhiều, những tháng xuân thì rồi cũng sẽ đi qua, mùa đông của đời rồi sẽ mau chóng đến. Tiếng gọi đó tha thiết khuyên mời ta hãy sửa soạn, hãy chuẩn bị cho một chuyến bay dài, bay mau đến Thiên Thành, nơi không còn nước mắt của buồn đau, phân ly của sự chết, cũng không có than khóc của tan vỡ, hay là đau đớn của bịnh tật [Khải-huyền 21:4].
Nơi đó là Thiên Đàng. Nơi đó có “sông nước sự sống, trong như lưu ly”, nơi đó có “cây sự sống trổ mười hai mùa”, nơi đó không còn mùa đông lạnh lẽo của bệnh tật kéo dài, nơi đó không có bóng đêm của nan đề, đêm tối của họan nạn. Nơi đó mặt trời chiếu sáng của cuộc đời sẽ không lặn, mặt trăng của hạnh phúc vĩnh cửu sẽ không khuyết. Nơi đó là Thiên Đàng.
2. Một nhận thức rõ ràng về chân lý:
Có một tiếng nói rõ ràng của chân lý, của lẽ phải muôn đời trong tâm ta, khiến cho ta biết chắc chắn rằng phải có thiên đàng và địa ngục.
Lịch sử kể lại rằng một ngày kia khi triết gia Socrates (470BC-399BC) bị bức tử oan uổng tại thành Athen, ông đã cầm lấy chén thuốc độc uống một cách bình tĩnh, sau đó ông còn chỉ cho học trò ông biết thuốc độc đã đi đến những nơi đâu trong thân thể ông. Quá ngạc nhiên và thán phục, các học trò của ông bèn hỏi ông lý do về sự can đảm và bình tĩnh của ông trước cái chết, thì được ông trả lời là, vì ông tin chắc rằng bên kia cõi chết còn có “điều gì đó dành sẵn cho người thiện, tuyệt vời hơn điều dành cho kẻ ác”.
Người Trung quốc đời xưa cũng thường nói: “Sanh ngô ký dã, tử ngô quy dã”, có nghĩa là “Sống là tôi gởi, chết là tôi về”. Trung quốc với Hy lạp ở rất xa nhau, nhưng cả hai đều cùng có một nhận thức, vì đó là nhận thức chung của con người muôn thuở, của nhân loại muôn đời, nhận thức rằng thế gian mình đang sống chỉ là nơi tạm trú, bên kia bờ sông của sự chết, mới là quê hương thật.
Alexander I. Solzhenitsyn (1918-2008) một văn hào Nga đã được giải Nobel về văn chương nhờ những tác phẩm làm rúng động trái tim nhân loại. Ông là một người có đức tin mạnh mẽ nơi Đức Chúa Trời.
Phần lớn cuộc đời của ông gắn liền với cái chết. Cha ông chết lúc ông chưa sinh ra. Khi tham gia Thế chiến lần thứ 2, ông chứng kiến sự chết của hầu hết bạn đồng đội. Khi bị Stalin lưu đày sang Siberia, ông chứng kiến sự chết của hầu hết bạn đồng tù. Một ngày kia khi báo chí hỏi ông rằng ông có sợ sự chết không, thì ông chia xẻ rằng hồi nhỏ cho đến khi lớn lên ông thường bị ám ảnh bởi sự chết bao quanh mình, và sợ rằng mình có thể chết sớm mà không kịp hoàn tất mộng văn chương. Nhưng đến sau tuổi 30 ông bắt đầu nhận thức ra rằng chết không phải là dấu chấm hết của một đời sống, mà chết chỉ là cột mốc thiên nhiên phân chia giữa một thế giới nầy với một thế giới kia. Chết chỉ là cột mốc thiên nhiên phân chia giữa thế giới mình đang sống, với thế giới mình sẽ đi đến. Từ đó, ông thấy lòng luôn được bình an, thanh thản, khi nghĩ về sự chết.
Chết là một cột mốc thiên nhiên: “Theo như đã định cho loài người phải chết một lần, rồi chịu phán xét” [Hê-bơ-rơ 9:27]. Chết là điều không ai tránh được. Nhưng chết không phải là hết. Vấn đề là sau khi chết, có được lên Thiên Đàng hay không.
3. Một sự đặt để nơi lòng về đời đời:
Trong Kinh Thánh Sách Truyền-đạo 3:11 có chép: “Lại, Ngài khiến cho sự đời đời ở nơi lòng loài người”… Nói đến đời đời, là nói đến cái gì đó vĩnh viễn, cái gì đó tuyệt đối: Sống là sống trẻ mãi mãi, không bao giờ già, không bao giờ chết. Yêu thương là yêu thương tuyệt đối không lẫn một chút ích kỷ nào, kéo dài hàng triệu năm, hàng tỷ năm, không bao giờ dứt. Hạnh phúc là tuyệt đối, không lẫn một giọt đau khổ nào, cho đến muôn đời, cho đến vĩnh cửu…
Đấng Tạo Hóa đã ban cho con người “những sự đời đời” đó, nhưng trong thế gian nầy con người không có chỗ để dùng. Đấng Tạo Hóa đã ban cho con người những nhu cầu tuyệt đối đó, nhưng trong thế gian nầy, con người không có chỗ để thỏa mãn.
Điều nầy cũng giống như một thai nhi. Bất kỳ thai nhi nào Đấng Tạo Hóa cũng ban cho đôi mắt để nhìn, và mắt có nhu cầu nhìn, nhưng trong bụng mẹ không có chỗ nào để cho đôi mắt của thai nhi ngắm nhìn, và thỏa mãn nhu cầu được ngắm nhìn. Bất kỳ thai nhi nào Đấng Tạo Hóa cũng ban cho đôi tay, nhưng trong bụng mẹ không có vật gì để cho đôi tay của thai nhi nắm cầm, và thỏa mãn nhu cầu được cầm nắm. Bất kỳ thai nhi nào Đấng Tạo Hóa cũng ban cho đôi chân, nhưng trong bụng mẹ không có nơi nào để cho đôi chân của thai nhi đi lại, và thỏa mãn nhu cầu được đi lại.
Thế thì, đối với một thai nhi, rõ ràng là bụng mẹ chỉ là nơi tạm trú. Tại nơi tạm trú đó thai nhi được ban cho nhiều thứ, nhưng không có điều kiện để sử dụng. Tại nơi tạm trú đó thai nhi được ban cho nhiều nhu cầu, nhưng không có phương tiện để thỏa mãn các nhu cầu.
Thế thì, đối với một thai nhi, rõ ràng là thế gian, tức là cuộc đời bên ngoài, mới là nơi thường trú. Chỉ tại nơi thường trú đó, thai nhi mới có điều kiện để sử dụng, có phương tiện để thỏa mãn các nhu cầu của mình.
Cũng giống y như vậy, đối với một con người, rõ ràng là thế gian nầy chỉ là nơi tạm trú. Tại nơi tạm trú đó con người được ban cho nhiều thứ, nhưng không có điều kiện để sử dụng. Tại nơi tạm trú đó con người được ban cho nhiều nhu cầu, nhưng không có phương tiện để thỏa mãn mọi nhu cầu.
Vâng, rõ ràng là chỉ có Thiên Đàng mới là nơi thường trú. Chỉ tại trên Thiên Đàng, mà con người mới có điều kiện để sử dụng “những sự đời đời”, mới có phương tiện để thỏa mãn mọi khát vọng về vĩnh cửu.
4. Và những tuyên bố minh bạch của Đấng Sáng Tạo:
Trước khi lên thập tự giá để chết chuộc tội cho nhân loại, Đức Chúa Jesus đã phán:
“Lòng các ngươi chớ hề bối rối; hãy tin Đức Chúa Trời, cũng hãy tin ta nữa. Trong nhà Cha ta có nhiều chỗ ở; bằng chẳng vậy, ta đã nói cho các ngươi rồi. Ta đi sắm sẵn cho các ngươi một chỗ. Khi ta đã đi, và sắm sẵn cho các ngươi một chỗ rồi, ta sẽ trở lại đem các ngươi đi với ta, hầu cho ta ở đâu thì các ngươi cũng ở đó…” [Giăng 14:1-3]
Dầu cho là bạn hay là thù, trong suốt 2000 năm qua, chưa hề có một người nào, ở đâu, có thể phát giác ra bất kỳ một lời nào của Đức Chúa Jesus phán mà là không thật.
Những gì Ngài đã phán về bản chất của thế giới hữu hình, và của đời sống trần trần gian đều là chân lý, đều là sự đúng, đều là sự thật muôn đời. Những gì Ngài tiên tri mà lịch sử có thể kiểm chứng được, thì thật đã xảy ra trong lịch sử, và đã được kiểm chứng. Thế thì những gì Ngài phán về thế giới vô hình, của đời sau hay của thế giới tương lai đều phải đúng, đều phải ứng nghiệm.
Hơn nữa, Ngài chính là Đức Chúa Trời, là Đấng Tạo Hóa toàn năng, toàn tri. Ngài đã minh chứng cho sự toàn năng, toàn tri của Ngài, bằng việc Ngài phán trước về sự chết chuộc tội, và về sự phục sinh vinh quang của Ngài.
Rồi sau đó, nghĩa là sau khi Ngài đã chết, và từ kẻ chết sống lại, Ngài đã hiện ra với Sứ đồ Giăng, và phán với ông rằng:
“Đừng sợ chi, ta là Đấng trước hết và là Đấng sau cùng, là Đấng Sống, ta đã chết, kìa nay ta sống đời đời, cầm chìa khóa của sự chết và âm phủ” [Khải-huyền 1:17-19].
Ngài là Đấng Tạo Hóa. Ngài là “Đấng Lạ lùng, là Đấng Mưu luận, là Đức Chúa Trời Quyền năng, là Cha Đời đời, là Chúa Bình an” [Ê-sai 9:5]. Ngài cầm chìa khóa của sự chết và âm phủ. Ngài cũng đang cầm chìa khóa của Sự Sống và Thiên Đàng. Ngài phán:
“Hỡi các ngươi được Cha ta ban phước, hãy đến mà nhận lấy nước thiên đàng đã sắm sẵn cho các ngươi từ khi dựng nên trời đất… Trời đất sẽ qua, nhưng lời ta nói chẳng bao giờ qua đi” [Ma-thi-ơ 25:34, 24:35].
Ngài đã sắm sẵn Thiên Đàng từ khi dựng nên trời đất. Nhưng về “một chỗ” dành cho mỗi cá nhân thì Ngài phải sắm bằng một cuộc giao dịch mới, đó là sự chết chuộc tội của Ngài. Vậy, những ai tin nhận Ngài làm Cứu Chúa, tức là Đấng cứu chuộc tội lỗi cho chính mình, thì đều có một chỗ trên Thiên Đàng.
Bấy giờ cõi đời đời sẽ bắt đầu.
Nhưng nếu chúng ta đợi cho đến giờ phút đó mới tìm hiểu về nơi mình sẽ đi đến, và đi đến cách nào, thì đã trể mất rồi. Vậy thì không phải là sớm, nếu chúng ta tìm hiểu hôm nay.
Nhưng ai có thể nói cho chúng ta biết về Thiên Đàng?
Còn ai nói cho chúng ta về Thiên Đàng tốt hơn là Đức Chúa Trời, Đấng dựng nên vũ trụ, cũng chính là Đấng dựng nên Thiên Đàng?
Và Ngài đã nói. Trước hết, Ngài đã nói cho chúng ta rằng Thiên Đàng là thực hữu, tức là có thật, bằng:
1. Một tiếng gọi bí mật từ trên cao:
Trong những ngày ngắn ngủi của trần gian, tôi may mắn từng được Thượng Đế cho sống qua hơn một năm bênh cạnh dòng thác lớn Niagara Falls của Canada, và giờ đây lại được sống ở tại vùng Trung Tây của Nước Mỹ, là những nơi không phải chỉ cảnh sắc đẹp tuyệt vời, mà cũng còn là những nơi thiên nhiên đầy huyền bí.
Hằng năm cứ vào độ cuối mùa Thu, khi những lá vàng lá đỏ trên các cành cây đã rụng hết, khi đất trời Phương Bắc đã đổi màu, mặt hồ bắt đầu se lại chuẩn bị đóng băng, thì cũng chính là lúc mà trên không trung vang lên tiếng gọi bí mật.
Một tiếng gọi huyền bí từ trên trời. Một lời nhắc nhở bí mật từ trên cao. Tiếng gọi nầy chạm đến tận nơi sâu thẳm trong lòng sự sống của những con ngỗng trời, thường được gọi là ngỗng trời Canada, làm cho nó xôn xao tỉnh thức.
Rồi thì từng đoàn, và từng đoàn ngỗng trời bổng tỉnh thức, cất tiếng kêu vang khi dời khỏi mặt nước, bay cao lên không trung, nghe theo tiếng gọi di thê. Hướng về phương Nam, có những đoàn dừng lại ở vùng nắng ấm Texas, Louisiana, Georgia, có những đoàn bay đến Bắc Mexico, và có những đoàn còn bay đến tận Đông Nam Nước Mỹ, như Florida.
Đây là những đoàn chim trốn tuyết. Những đoàn chim nầy ra đi rất sớm trước khi tuyết rơi. Hằng năm chúng đều bay đi như thế, để được hưởng mùi nắng ấm phương Nam.
Trong những đoàn chim nầy, có những con chưa hề bao giờ thấy tuyết. Còn những con chim non mới vừa sinh ra trong mùa xuân và lớn lên trong mùa hạ, thì lại càng ít kinh nghiệm hơn. Những con chim nầy chẳng những chưa hề biết đến tuyết, mà cũng chưa hề biết đến những thảm cỏ xanh của phương Nam bao giờ.
Vậy tại sao chúng lại trốn tuyết mà di thê về phương Nam?
Đó là vì có một tiếng nói bí mật đã vang lên cho chúng từ trên trời, tiếng nói đó vang vọng đến sự sống mầu nhiệm của chúng. Tiếng gọi đó mạnh mẽ báo cho chúng rằng sông hồ rồi đây sẽ đóng băng, cỏ cây sẽ phủ tuyết, và tha thiết kêu gọi chúng hãy mau mau di cư về Phương Nam, nơi có mặt trời đang chiếu sáng, suối vẫn chảy róc rách, và cây cỏ vẫn xanh tươi.
Cũng vậy, có một tiếng gọi bí mật từ bên ngoài cuộc đời, vang lên từng hồi từng lúc bên tai ta, vang động đến tận linh hồn ta. Tiếng gọi đó nhắc cho linh hồn ta biết rằng các năm tháng vay mượn của đời ta rồi đây sẽ đáo hạn, những ngày vàng xâu bằng dây bạc rồi ra chẳng còn nhiều, những tháng xuân thì rồi cũng sẽ đi qua, mùa đông của đời rồi sẽ mau chóng đến. Tiếng gọi đó tha thiết khuyên mời ta hãy sửa soạn, hãy chuẩn bị cho một chuyến bay dài, bay mau đến Thiên Thành, nơi không còn nước mắt của buồn đau, phân ly của sự chết, cũng không có than khóc của tan vỡ, hay là đau đớn của bịnh tật [Khải-huyền 21:4].
Nơi đó là Thiên Đàng. Nơi đó có “sông nước sự sống, trong như lưu ly”, nơi đó có “cây sự sống trổ mười hai mùa”, nơi đó không còn mùa đông lạnh lẽo của bệnh tật kéo dài, nơi đó không có bóng đêm của nan đề, đêm tối của họan nạn. Nơi đó mặt trời chiếu sáng của cuộc đời sẽ không lặn, mặt trăng của hạnh phúc vĩnh cửu sẽ không khuyết. Nơi đó là Thiên Đàng.
2. Một nhận thức rõ ràng về chân lý:
Có một tiếng nói rõ ràng của chân lý, của lẽ phải muôn đời trong tâm ta, khiến cho ta biết chắc chắn rằng phải có thiên đàng và địa ngục.
Lịch sử kể lại rằng một ngày kia khi triết gia Socrates (470BC-399BC) bị bức tử oan uổng tại thành Athen, ông đã cầm lấy chén thuốc độc uống một cách bình tĩnh, sau đó ông còn chỉ cho học trò ông biết thuốc độc đã đi đến những nơi đâu trong thân thể ông. Quá ngạc nhiên và thán phục, các học trò của ông bèn hỏi ông lý do về sự can đảm và bình tĩnh của ông trước cái chết, thì được ông trả lời là, vì ông tin chắc rằng bên kia cõi chết còn có “điều gì đó dành sẵn cho người thiện, tuyệt vời hơn điều dành cho kẻ ác”.
Người Trung quốc đời xưa cũng thường nói: “Sanh ngô ký dã, tử ngô quy dã”, có nghĩa là “Sống là tôi gởi, chết là tôi về”. Trung quốc với Hy lạp ở rất xa nhau, nhưng cả hai đều cùng có một nhận thức, vì đó là nhận thức chung của con người muôn thuở, của nhân loại muôn đời, nhận thức rằng thế gian mình đang sống chỉ là nơi tạm trú, bên kia bờ sông của sự chết, mới là quê hương thật.
Alexander I. Solzhenitsyn (1918-2008) một văn hào Nga đã được giải Nobel về văn chương nhờ những tác phẩm làm rúng động trái tim nhân loại. Ông là một người có đức tin mạnh mẽ nơi Đức Chúa Trời.
Phần lớn cuộc đời của ông gắn liền với cái chết. Cha ông chết lúc ông chưa sinh ra. Khi tham gia Thế chiến lần thứ 2, ông chứng kiến sự chết của hầu hết bạn đồng đội. Khi bị Stalin lưu đày sang Siberia, ông chứng kiến sự chết của hầu hết bạn đồng tù. Một ngày kia khi báo chí hỏi ông rằng ông có sợ sự chết không, thì ông chia xẻ rằng hồi nhỏ cho đến khi lớn lên ông thường bị ám ảnh bởi sự chết bao quanh mình, và sợ rằng mình có thể chết sớm mà không kịp hoàn tất mộng văn chương. Nhưng đến sau tuổi 30 ông bắt đầu nhận thức ra rằng chết không phải là dấu chấm hết của một đời sống, mà chết chỉ là cột mốc thiên nhiên phân chia giữa một thế giới nầy với một thế giới kia. Chết chỉ là cột mốc thiên nhiên phân chia giữa thế giới mình đang sống, với thế giới mình sẽ đi đến. Từ đó, ông thấy lòng luôn được bình an, thanh thản, khi nghĩ về sự chết.
Chết là một cột mốc thiên nhiên: “Theo như đã định cho loài người phải chết một lần, rồi chịu phán xét” [Hê-bơ-rơ 9:27]. Chết là điều không ai tránh được. Nhưng chết không phải là hết. Vấn đề là sau khi chết, có được lên Thiên Đàng hay không.
3. Một sự đặt để nơi lòng về đời đời:
Trong Kinh Thánh Sách Truyền-đạo 3:11 có chép: “Lại, Ngài khiến cho sự đời đời ở nơi lòng loài người”… Nói đến đời đời, là nói đến cái gì đó vĩnh viễn, cái gì đó tuyệt đối: Sống là sống trẻ mãi mãi, không bao giờ già, không bao giờ chết. Yêu thương là yêu thương tuyệt đối không lẫn một chút ích kỷ nào, kéo dài hàng triệu năm, hàng tỷ năm, không bao giờ dứt. Hạnh phúc là tuyệt đối, không lẫn một giọt đau khổ nào, cho đến muôn đời, cho đến vĩnh cửu…
Đấng Tạo Hóa đã ban cho con người “những sự đời đời” đó, nhưng trong thế gian nầy con người không có chỗ để dùng. Đấng Tạo Hóa đã ban cho con người những nhu cầu tuyệt đối đó, nhưng trong thế gian nầy, con người không có chỗ để thỏa mãn.
Điều nầy cũng giống như một thai nhi. Bất kỳ thai nhi nào Đấng Tạo Hóa cũng ban cho đôi mắt để nhìn, và mắt có nhu cầu nhìn, nhưng trong bụng mẹ không có chỗ nào để cho đôi mắt của thai nhi ngắm nhìn, và thỏa mãn nhu cầu được ngắm nhìn. Bất kỳ thai nhi nào Đấng Tạo Hóa cũng ban cho đôi tay, nhưng trong bụng mẹ không có vật gì để cho đôi tay của thai nhi nắm cầm, và thỏa mãn nhu cầu được cầm nắm. Bất kỳ thai nhi nào Đấng Tạo Hóa cũng ban cho đôi chân, nhưng trong bụng mẹ không có nơi nào để cho đôi chân của thai nhi đi lại, và thỏa mãn nhu cầu được đi lại.
Thế thì, đối với một thai nhi, rõ ràng là bụng mẹ chỉ là nơi tạm trú. Tại nơi tạm trú đó thai nhi được ban cho nhiều thứ, nhưng không có điều kiện để sử dụng. Tại nơi tạm trú đó thai nhi được ban cho nhiều nhu cầu, nhưng không có phương tiện để thỏa mãn các nhu cầu.
Thế thì, đối với một thai nhi, rõ ràng là thế gian, tức là cuộc đời bên ngoài, mới là nơi thường trú. Chỉ tại nơi thường trú đó, thai nhi mới có điều kiện để sử dụng, có phương tiện để thỏa mãn các nhu cầu của mình.
Cũng giống y như vậy, đối với một con người, rõ ràng là thế gian nầy chỉ là nơi tạm trú. Tại nơi tạm trú đó con người được ban cho nhiều thứ, nhưng không có điều kiện để sử dụng. Tại nơi tạm trú đó con người được ban cho nhiều nhu cầu, nhưng không có phương tiện để thỏa mãn mọi nhu cầu.
Vâng, rõ ràng là chỉ có Thiên Đàng mới là nơi thường trú. Chỉ tại trên Thiên Đàng, mà con người mới có điều kiện để sử dụng “những sự đời đời”, mới có phương tiện để thỏa mãn mọi khát vọng về vĩnh cửu.
4. Và những tuyên bố minh bạch của Đấng Sáng Tạo:
Trước khi lên thập tự giá để chết chuộc tội cho nhân loại, Đức Chúa Jesus đã phán:
“Lòng các ngươi chớ hề bối rối; hãy tin Đức Chúa Trời, cũng hãy tin ta nữa. Trong nhà Cha ta có nhiều chỗ ở; bằng chẳng vậy, ta đã nói cho các ngươi rồi. Ta đi sắm sẵn cho các ngươi một chỗ. Khi ta đã đi, và sắm sẵn cho các ngươi một chỗ rồi, ta sẽ trở lại đem các ngươi đi với ta, hầu cho ta ở đâu thì các ngươi cũng ở đó…” [Giăng 14:1-3]
Dầu cho là bạn hay là thù, trong suốt 2000 năm qua, chưa hề có một người nào, ở đâu, có thể phát giác ra bất kỳ một lời nào của Đức Chúa Jesus phán mà là không thật.
Những gì Ngài đã phán về bản chất của thế giới hữu hình, và của đời sống trần trần gian đều là chân lý, đều là sự đúng, đều là sự thật muôn đời. Những gì Ngài tiên tri mà lịch sử có thể kiểm chứng được, thì thật đã xảy ra trong lịch sử, và đã được kiểm chứng. Thế thì những gì Ngài phán về thế giới vô hình, của đời sau hay của thế giới tương lai đều phải đúng, đều phải ứng nghiệm.
Hơn nữa, Ngài chính là Đức Chúa Trời, là Đấng Tạo Hóa toàn năng, toàn tri. Ngài đã minh chứng cho sự toàn năng, toàn tri của Ngài, bằng việc Ngài phán trước về sự chết chuộc tội, và về sự phục sinh vinh quang của Ngài.
Rồi sau đó, nghĩa là sau khi Ngài đã chết, và từ kẻ chết sống lại, Ngài đã hiện ra với Sứ đồ Giăng, và phán với ông rằng:
“Đừng sợ chi, ta là Đấng trước hết và là Đấng sau cùng, là Đấng Sống, ta đã chết, kìa nay ta sống đời đời, cầm chìa khóa của sự chết và âm phủ” [Khải-huyền 1:17-19].
Ngài là Đấng Tạo Hóa. Ngài là “Đấng Lạ lùng, là Đấng Mưu luận, là Đức Chúa Trời Quyền năng, là Cha Đời đời, là Chúa Bình an” [Ê-sai 9:5]. Ngài cầm chìa khóa của sự chết và âm phủ. Ngài cũng đang cầm chìa khóa của Sự Sống và Thiên Đàng. Ngài phán:
“Hỡi các ngươi được Cha ta ban phước, hãy đến mà nhận lấy nước thiên đàng đã sắm sẵn cho các ngươi từ khi dựng nên trời đất… Trời đất sẽ qua, nhưng lời ta nói chẳng bao giờ qua đi” [Ma-thi-ơ 25:34, 24:35].
Ngài đã sắm sẵn Thiên Đàng từ khi dựng nên trời đất. Nhưng về “một chỗ” dành cho mỗi cá nhân thì Ngài phải sắm bằng một cuộc giao dịch mới, đó là sự chết chuộc tội của Ngài. Vậy, những ai tin nhận Ngài làm Cứu Chúa, tức là Đấng cứu chuộc tội lỗi cho chính mình, thì đều có một chỗ trên Thiên Đàng.
ĐƯỜNG NÀO
LÊN
THIÊN ĐÀNG?
LÊN
THIÊN ĐÀNG?
Đức Chúa Jesus lại phán tiếp:
“Các ngươi biết ta đi đâu, và biết đường đi nữa. Thô-ma thưa rằng: Lạy Chúa, chúng tôi chẳng biết Chúa đi đâu; làm sao biết đường được? Vậy Đức Chúa Jêsus đáp rằng: Ta là đường đi, lẽ thật, và sự sống; chẳng bởi ta thì không ai được đến cùng Cha”. [Giăng 14:4-6]
Đức Chúa Jesus phán rằng Ngài là đường đi để đi đến cùng Đức Chúa Cha, cũng như đi lên Thiên Đàng.
Nhưng “đường đi” có ý nghĩa gì? Trong ngôn ngữ của của Kinh Thánh, tức là tiếng Hy-lạp, chữ “đường đi” là “οδός” (Bạn có thể tra chữ nầy trên Google. Từ chữ nầy mà Tiếng Anh có chữ “Ex-odus”, có nghĩa là “Con đường đi ra”). Rất hay, “οδός” cũng còn có nghĩa là “giải pháp”, “οδός” cũng còn có nghĩa là “phương tiện”.
Mà quả thật vậy, con đường luôn luôn là “giải pháp”, là “phương tiện”, để chúng ta đến được một nơi nào đó. Chúng ta hay hỏi: “Anh đi đường nào để đến đây?”, hay “Anh dùng phương tiện nào để đến đây?”.
Nhưng con đường không nhứt thiết là một lối mòn ngoằn ngoèo trên mặt đất, hay con đại lộ tráng nhựa rộng thênh thang, mà mắt chúng ta thấy được. Con đường còn có nghĩa là giải pháp, là phương tiện. Ví dụ khi ta nói đến đường thủy, chúng ta không thấy con đường hiện ra trên mặt nước, mà chúng ta thấy chiếc tàu. Cũng vậy, khi ta nói đến đường hàng không, chúng ta không thấy con đường hiện ra trên không trung, mà chúng ta thấy chiếc máy bay.
Ngày nay khi chúng ta du hành bằng đường bộ, đường thủy, hay đường hàng không, chân chúng không cần bước trên đất, lội trên nước, tay chúng ta không cần quạt trong không khí. Tất cả việc chúng ta cần làm là mua một tấm vé, tin cậy vào khả năng của phương tiện chuyên chở, tức là của chiếc xe, hay chiếc tàu. Rồi nhờ sự tin tưởng đó mà chúng ta bước vào xe hay vào tàu, giao mình cho nó, yên nghỉ trong nó, đừng bước ra khỏi nó, chính nó sẽ chuyên chở, chính nó sẽ đem chúng ta đến nơi chúng ta cần đến, tức là “destination”, có ghi rõ ràng trên tấm vé.
Cũng giống y như vậy. Ngày nay khi chúng ta muốn đi đến Thiên Đàng, chúng ta không cần dùng sự vận động riêng, sức riêng hay bất kỳ một cố gắng riêng nào của chúng ta. Tất cả việc chúng ta cần làm là mua một tấm vé, tin cậy vào khả năng của phương tiện chuyên chở, tức là “đường đi”, tức là Đức Chúa Jesus, bởi vì Ngài đã phán rằng: “Ta là đường đi” [Giăng 14:4-6].
Rồi thì bởi đức tin tin cậy vào khả năng chuyên chở của Ngài, chúng ta bước vào trong Ngài, giao mình cho Ngài, yên nghỉ trong Ngài, đừng bước ra khỏi Ngài để rồi chính Ngài sẽ mang, chính Ngài sẽ chở, chính Ngài sẽ đem chúng ta đến nơi chúng ta cần đến, tức là Thiên Đàng, có ghi rõ ràng trong Kinh Thánh.
Tuy nhiên, du hành đây đó thì ngày nay Trời cho chúng ta thường có đủ điều kiện. Nhưng về hành trình đi đến Thiên Đàng của chúng ta, thì chúng ta lại phải gặp phải một trở ngại, tuy duy nhất, nhưng rất lớn: Đó là tiền để mua tấm vé vào Thiên Đàng, tức là giá chuộc tội cho chúng ta.
Ngày xưa vì chúng ta phạm tội mà bị đuổi khỏi Vườn Địa Đàng, nên ngày nay chúng ta cần giá chuộc tội để được nhận vào Thiên Đàng.
Nhưng chúng ta lại chẳng bao giờ có đủ khả năng để trả giá đó, vì Kinh Thánh là lời của Đức Chúa Trời đã có phán rõ:
“Chúng nó nhờ cậy nơi tài sản mình,
Phô trương của cải dư dật mình.
Chẳng có người nào chuộc được anh em mình,
Hoặc đóng giá chuộc người nơi Đức Chúa Trời,
Hầu cho người được sống mãi mãi,
Chẳng hề thấy sự hư nát.
Vì giá chuộc mạng sống họ thật mắc quá,
Người không thể làm được đến đời đời”. [Thi-thiên 49:6-9]
Nhưng lại cũng may thay, và phước hạnh lớn thay, vì Kinh Thánh lại cũng có chép:
“Ấy vậy, Con người đã đến…phó sự sống mình làm giá chuộc nhiều người [Ma-thi-ơ 20:28]
“Đấng yêu thương chúng ta, đã lấy huyết mình rửa sạch tội lỗi chúng ta, và làm cho chúng ta nên nước Ngài, nên thầy tế lễ của Đức Chúa Trời là Cha Ngài…Vì…chẳng phải bởi vật hay hư nát như bạc hoặc vàng mà anh em đã được chuộc khỏi sự ăn ở không ra chi của tổ tiên truyền lại cho mình, bèn là bởi huyết báu Đấng Christ [Khải-huyền 1:6, 1 Phi-e-rơ 1:18],
Nghĩa là vì không ai có đủ khả năng để trả được giá chuộc tội lỗi cho mình, nên Đức Chúa Jesus là Đấng yêu thương chúng ta, đã đến trong thế gian, chịu chết vô cùng đau đớn trên thập tự giá, và đổ huyết ra để trả giá chuộc tội đó,
Đồng thời thay đổi chúng ta từ địa vị là nô lệ của Satan đến địa vị là Công dân của Nước Trời, từ số phận đã bị định cho địa ngục, trở nên những người được chính thức thừa thọ Thiên Đàng.
Bạn Quý Mến,
Đức Chúa Trời là Cha của chúng ta, yêu chúng ta và luôn luôn mong ước chúng ta được sống mãi mãi bên Ngài. Tình yêu và lòng mong ước đó tha thiết mạnh mẽ đến nỗi, đang khi chúng ta tội lỗi xây lưng với Ngài, thì Ngài vẫn cứ yêu, và sai Con Ngài là Đức Chúa Jesus đến thế gian chịu chết, hầu chuộc tội cho chúng ta, làm một con đường, tạo một giải pháp, để chúng ta có thể trở lại được với Ngài, và đến được Thiên Đàng.
Bạn Quý Mến, vì Đức Chúa Jêsus đã phán rằng Ngài là đường đi, lẽ thật, và sự sống; chẳng bởi Ngài thì không ai được đến cùng Cha. Nên nếu thì giờ nầy Bạn thấy lòng được cảm động trước tình yêu của Cha và muốn đến cùng Cha, thì Bạn hãy nhơn Danh Cứu Chúa Jesus mà dâng lên Cha một lời cầu nguyện đại ý như sau:
Kính lạy Đức Chúa Trời,
Là Cha Yêu Dấu của con,
Cha ơi, con biết con là người có tội,
Mà tội con thì quá lớn ở trước mặt Ngài,
Con biết rằng tất của cải, tài sản của con,
Con biết rằng tất cả công đức, việc thiện của con,
Cũng không mua cho con được một phút trên Thiên Đàng.
Nhưng Chúa ơi, Ngài đã đến thế gian tìm con,
Ngài đã chết trên thập tự giá, huyết Ngài đã đổ ra,
Để sắm một chỗ trên Thiên Đàng cho con.
Vì vậy giờ phút nầy đây,
Con xin lấy hết lòng thành tin cậy,
Mà bước đến với vòng tay cứu rỗi của Ngài,
Và xin mời Ngài ngự vào cuộc đời con,
Để sống trong con mãi mãi,
Để làm Chúa, và làm Chủ cả cuộc đời còn lại của con.
Kể từ đây xin Ngài ban cho con một đời sống mới,
Một đời sống yêu thương, một đời sống thánh khiết,
Một đời sống hầu việc Chúa, một đời sống phục vụ người khác,
Để con bày tỏ được lòng biết ơn về Tình Yêu và Ơn Cứu Rỗi,
mà Ngài đã ban cho con.
Con xin Ngài ghi tên con vào Sổ Sự Sống Thiên Đàng,
Và vui lòng đem con vào sống nơi hạnh phước đó,
Một mai kia khi con phải giả biệt thế giới nầy,
Để đi về ở cùng Ngài trên đó mãi mãi.
Con cầu nguyện Nhơn Danh Cứu Chúa Jesus, Amen.
“Các ngươi biết ta đi đâu, và biết đường đi nữa. Thô-ma thưa rằng: Lạy Chúa, chúng tôi chẳng biết Chúa đi đâu; làm sao biết đường được? Vậy Đức Chúa Jêsus đáp rằng: Ta là đường đi, lẽ thật, và sự sống; chẳng bởi ta thì không ai được đến cùng Cha”. [Giăng 14:4-6]
Đức Chúa Jesus phán rằng Ngài là đường đi để đi đến cùng Đức Chúa Cha, cũng như đi lên Thiên Đàng.
Nhưng “đường đi” có ý nghĩa gì? Trong ngôn ngữ của của Kinh Thánh, tức là tiếng Hy-lạp, chữ “đường đi” là “οδός” (Bạn có thể tra chữ nầy trên Google. Từ chữ nầy mà Tiếng Anh có chữ “Ex-odus”, có nghĩa là “Con đường đi ra”). Rất hay, “οδός” cũng còn có nghĩa là “giải pháp”, “οδός” cũng còn có nghĩa là “phương tiện”.
Mà quả thật vậy, con đường luôn luôn là “giải pháp”, là “phương tiện”, để chúng ta đến được một nơi nào đó. Chúng ta hay hỏi: “Anh đi đường nào để đến đây?”, hay “Anh dùng phương tiện nào để đến đây?”.
Nhưng con đường không nhứt thiết là một lối mòn ngoằn ngoèo trên mặt đất, hay con đại lộ tráng nhựa rộng thênh thang, mà mắt chúng ta thấy được. Con đường còn có nghĩa là giải pháp, là phương tiện. Ví dụ khi ta nói đến đường thủy, chúng ta không thấy con đường hiện ra trên mặt nước, mà chúng ta thấy chiếc tàu. Cũng vậy, khi ta nói đến đường hàng không, chúng ta không thấy con đường hiện ra trên không trung, mà chúng ta thấy chiếc máy bay.
Ngày nay khi chúng ta du hành bằng đường bộ, đường thủy, hay đường hàng không, chân chúng không cần bước trên đất, lội trên nước, tay chúng ta không cần quạt trong không khí. Tất cả việc chúng ta cần làm là mua một tấm vé, tin cậy vào khả năng của phương tiện chuyên chở, tức là của chiếc xe, hay chiếc tàu. Rồi nhờ sự tin tưởng đó mà chúng ta bước vào xe hay vào tàu, giao mình cho nó, yên nghỉ trong nó, đừng bước ra khỏi nó, chính nó sẽ chuyên chở, chính nó sẽ đem chúng ta đến nơi chúng ta cần đến, tức là “destination”, có ghi rõ ràng trên tấm vé.
Cũng giống y như vậy. Ngày nay khi chúng ta muốn đi đến Thiên Đàng, chúng ta không cần dùng sự vận động riêng, sức riêng hay bất kỳ một cố gắng riêng nào của chúng ta. Tất cả việc chúng ta cần làm là mua một tấm vé, tin cậy vào khả năng của phương tiện chuyên chở, tức là “đường đi”, tức là Đức Chúa Jesus, bởi vì Ngài đã phán rằng: “Ta là đường đi” [Giăng 14:4-6].
Rồi thì bởi đức tin tin cậy vào khả năng chuyên chở của Ngài, chúng ta bước vào trong Ngài, giao mình cho Ngài, yên nghỉ trong Ngài, đừng bước ra khỏi Ngài để rồi chính Ngài sẽ mang, chính Ngài sẽ chở, chính Ngài sẽ đem chúng ta đến nơi chúng ta cần đến, tức là Thiên Đàng, có ghi rõ ràng trong Kinh Thánh.
Tuy nhiên, du hành đây đó thì ngày nay Trời cho chúng ta thường có đủ điều kiện. Nhưng về hành trình đi đến Thiên Đàng của chúng ta, thì chúng ta lại phải gặp phải một trở ngại, tuy duy nhất, nhưng rất lớn: Đó là tiền để mua tấm vé vào Thiên Đàng, tức là giá chuộc tội cho chúng ta.
Ngày xưa vì chúng ta phạm tội mà bị đuổi khỏi Vườn Địa Đàng, nên ngày nay chúng ta cần giá chuộc tội để được nhận vào Thiên Đàng.
Nhưng chúng ta lại chẳng bao giờ có đủ khả năng để trả giá đó, vì Kinh Thánh là lời của Đức Chúa Trời đã có phán rõ:
“Chúng nó nhờ cậy nơi tài sản mình,
Phô trương của cải dư dật mình.
Chẳng có người nào chuộc được anh em mình,
Hoặc đóng giá chuộc người nơi Đức Chúa Trời,
Hầu cho người được sống mãi mãi,
Chẳng hề thấy sự hư nát.
Vì giá chuộc mạng sống họ thật mắc quá,
Người không thể làm được đến đời đời”. [Thi-thiên 49:6-9]
Nhưng lại cũng may thay, và phước hạnh lớn thay, vì Kinh Thánh lại cũng có chép:
“Ấy vậy, Con người đã đến…phó sự sống mình làm giá chuộc nhiều người [Ma-thi-ơ 20:28]
“Đấng yêu thương chúng ta, đã lấy huyết mình rửa sạch tội lỗi chúng ta, và làm cho chúng ta nên nước Ngài, nên thầy tế lễ của Đức Chúa Trời là Cha Ngài…Vì…chẳng phải bởi vật hay hư nát như bạc hoặc vàng mà anh em đã được chuộc khỏi sự ăn ở không ra chi của tổ tiên truyền lại cho mình, bèn là bởi huyết báu Đấng Christ [Khải-huyền 1:6, 1 Phi-e-rơ 1:18],
Nghĩa là vì không ai có đủ khả năng để trả được giá chuộc tội lỗi cho mình, nên Đức Chúa Jesus là Đấng yêu thương chúng ta, đã đến trong thế gian, chịu chết vô cùng đau đớn trên thập tự giá, và đổ huyết ra để trả giá chuộc tội đó,
Đồng thời thay đổi chúng ta từ địa vị là nô lệ của Satan đến địa vị là Công dân của Nước Trời, từ số phận đã bị định cho địa ngục, trở nên những người được chính thức thừa thọ Thiên Đàng.
Bạn Quý Mến,
Đức Chúa Trời là Cha của chúng ta, yêu chúng ta và luôn luôn mong ước chúng ta được sống mãi mãi bên Ngài. Tình yêu và lòng mong ước đó tha thiết mạnh mẽ đến nỗi, đang khi chúng ta tội lỗi xây lưng với Ngài, thì Ngài vẫn cứ yêu, và sai Con Ngài là Đức Chúa Jesus đến thế gian chịu chết, hầu chuộc tội cho chúng ta, làm một con đường, tạo một giải pháp, để chúng ta có thể trở lại được với Ngài, và đến được Thiên Đàng.
Bạn Quý Mến, vì Đức Chúa Jêsus đã phán rằng Ngài là đường đi, lẽ thật, và sự sống; chẳng bởi Ngài thì không ai được đến cùng Cha. Nên nếu thì giờ nầy Bạn thấy lòng được cảm động trước tình yêu của Cha và muốn đến cùng Cha, thì Bạn hãy nhơn Danh Cứu Chúa Jesus mà dâng lên Cha một lời cầu nguyện đại ý như sau:
Kính lạy Đức Chúa Trời,
Là Cha Yêu Dấu của con,
Cha ơi, con biết con là người có tội,
Mà tội con thì quá lớn ở trước mặt Ngài,
Con biết rằng tất của cải, tài sản của con,
Con biết rằng tất cả công đức, việc thiện của con,
Cũng không mua cho con được một phút trên Thiên Đàng.
Nhưng Chúa ơi, Ngài đã đến thế gian tìm con,
Ngài đã chết trên thập tự giá, huyết Ngài đã đổ ra,
Để sắm một chỗ trên Thiên Đàng cho con.
Vì vậy giờ phút nầy đây,
Con xin lấy hết lòng thành tin cậy,
Mà bước đến với vòng tay cứu rỗi của Ngài,
Và xin mời Ngài ngự vào cuộc đời con,
Để sống trong con mãi mãi,
Để làm Chúa, và làm Chủ cả cuộc đời còn lại của con.
Kể từ đây xin Ngài ban cho con một đời sống mới,
Một đời sống yêu thương, một đời sống thánh khiết,
Một đời sống hầu việc Chúa, một đời sống phục vụ người khác,
Để con bày tỏ được lòng biết ơn về Tình Yêu và Ơn Cứu Rỗi,
mà Ngài đã ban cho con.
Con xin Ngài ghi tên con vào Sổ Sự Sống Thiên Đàng,
Và vui lòng đem con vào sống nơi hạnh phước đó,
Một mai kia khi con phải giả biệt thế giới nầy,
Để đi về ở cùng Ngài trên đó mãi mãi.
Con cầu nguyện Nhơn Danh Cứu Chúa Jesus, Amen.
NHỮNG WEBSITES CƠ ĐỐC:
Đài Phát Thanh Nguồn Sống:
https://www.dainguonsong.com/
Phát Thanh Nguồn Hy Vọng:
https://www.nguonhyvong.com/
Phát Thanh Tin Lành Hy Vọng:
https://www.tinlanhhyvong.com/
Phát Thanh Tin Lành:
http://tinlanh.org/
One Way Radio VN:
https://oneway.vn/
Người Tin Lành:
https://vietchristian.com/
Thư Viện Tin Lành:
https://www.thuvientinlanh.org/
Thư Viện Tin Lành:
http://lib.tinlanhlibrary.info/
Văn Phẩm Nguồn Sống:
https://www.vpns.org/
Hội Thánh Tin Lành:
https://hoithanh.com/
Giáo Hạt việt Nam Hoa Kỳ:
http://www.ghvnhk.org/index.html
Tổng Liên Hội Hội Thánh Tin Lành Miền Nam:
https://httlvn.org/
Tổng Hội Hội Thánh Tin Lành Miền Bắc:
http://www.tinlanhmienbac.org/
Hội Thánh Tin Lành Úc Châu:
http://www.tinlanh
https://www.dainguonsong.com/
Phát Thanh Nguồn Hy Vọng:
https://www.nguonhyvong.com/
Phát Thanh Tin Lành Hy Vọng:
https://www.tinlanhhyvong.com/
Phát Thanh Tin Lành:
http://tinlanh.org/
One Way Radio VN:
https://oneway.vn/
Người Tin Lành:
https://vietchristian.com/
Thư Viện Tin Lành:
https://www.thuvientinlanh.org/
Thư Viện Tin Lành:
http://lib.tinlanhlibrary.info/
Văn Phẩm Nguồn Sống:
https://www.vpns.org/
Hội Thánh Tin Lành:
https://hoithanh.com/
Giáo Hạt việt Nam Hoa Kỳ:
http://www.ghvnhk.org/index.html
Tổng Liên Hội Hội Thánh Tin Lành Miền Nam:
https://httlvn.org/
Tổng Hội Hội Thánh Tin Lành Miền Bắc:
http://www.tinlanhmienbac.org/
Hội Thánh Tin Lành Úc Châu:
http://www.tinlanh
TÀI LIỆU TRUYỀN BÁ ĐỨC TIN:
Tôi Đã Chọn Trần Thuyên
Thuyền Hồn Neo Bến Bác Sĩ Châu Ngọc Hiệp
Câu Chuyện Đổi Đời Bác Sĩ Châu Ngọc Hiệp
Steps to Peace with God Billy Graham
Có Đấng Tạo Hóa Không? Kim Đức
Vì Sao Kinh Thánh Quyền Năng? Kim Đức
Thượng Đế Vẫn Còn Làm Phép Lạ Lê Văn Thủy
Theo Một Triết Lý Tôn Giáo Hay Đấng Cứu Thế Trần Thuyên
TÀI LIỆU GÂY DỰNG ĐỨC TIN:
Tội Lỗi Là Gì ? Kim Đức
Loài Người Là Gì ? Kim Đức
Ngài Thật Đã Sống Lại ? Kim Đức
Sao Là Tin Lành Cứu Rỗi ? Kim Đức
Làm Sao Chiên Lạc Trở Về ? Kim Đức
Thật Có Thiên Đàng Chăng ? Kim Đức
Sự Sống Đời Đời Có Nghĩa Gì ? Kim Đức
Làm Gì Trong Giờ Tĩnh Nguyện ? Kim Đức
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG ĐỨC TIN:
Đức Tin Là Gì ? Kim Đức
Sống Bằng Tín Dụng Nào ? Kim Đức
Những Bài Học Từ Sách Gióp Kim Đức
Dòng Dõi Người Tuận Đạo Kim Đức
Trong Khu Vườn Kỷ Niệm Kim Đức
Những Vần Thơ Cơ Đốc Kim Đức
TÀI LIỆU GÂY DỰNG CHỨNG NHÂN:
Thần Học Bình Dân Kim Đức
Thánh Sử Hám Giá Kim Đức
Từ Bàn Tiệc Sáng Thế Kim Đức
Luật Pháp Của Đức Chúa Trời Kim Đức
Quyển Sách Của Đức Chúa Trời Kim Đức
Những Vĩ Nhân Đương Thời Kim Đức
Tôi Đã Chọn Trần Thuyên
Thuyền Hồn Neo Bến Bác Sĩ Châu Ngọc Hiệp
Câu Chuyện Đổi Đời Bác Sĩ Châu Ngọc Hiệp
Steps to Peace with God Billy Graham
Có Đấng Tạo Hóa Không? Kim Đức
Vì Sao Kinh Thánh Quyền Năng? Kim Đức
Thượng Đế Vẫn Còn Làm Phép Lạ Lê Văn Thủy
Theo Một Triết Lý Tôn Giáo Hay Đấng Cứu Thế Trần Thuyên
TÀI LIỆU GÂY DỰNG ĐỨC TIN:
Tội Lỗi Là Gì ? Kim Đức
Loài Người Là Gì ? Kim Đức
Ngài Thật Đã Sống Lại ? Kim Đức
Sao Là Tin Lành Cứu Rỗi ? Kim Đức
Làm Sao Chiên Lạc Trở Về ? Kim Đức
Thật Có Thiên Đàng Chăng ? Kim Đức
Sự Sống Đời Đời Có Nghĩa Gì ? Kim Đức
Làm Gì Trong Giờ Tĩnh Nguyện ? Kim Đức
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG ĐỨC TIN:
Đức Tin Là Gì ? Kim Đức
Sống Bằng Tín Dụng Nào ? Kim Đức
Những Bài Học Từ Sách Gióp Kim Đức
Dòng Dõi Người Tuận Đạo Kim Đức
Trong Khu Vườn Kỷ Niệm Kim Đức
Những Vần Thơ Cơ Đốc Kim Đức
TÀI LIỆU GÂY DỰNG CHỨNG NHÂN:
Thần Học Bình Dân Kim Đức
Thánh Sử Hám Giá Kim Đức
Từ Bàn Tiệc Sáng Thế Kim Đức
Luật Pháp Của Đức Chúa Trời Kim Đức
Quyển Sách Của Đức Chúa Trời Kim Đức
Những Vĩ Nhân Đương Thời Kim Đức