LOÀI NGƯỜI
LÀ GÌ ?
LÀ GÌ ?
Vua David, vị hoàng đế có công chinh phục và xây dựng Jerusalem, người đã chế tác ra lá cờ “Ngôi sao David” hiện tại đang sử dụng của Nhà nước Israel, đồng thời ông cũng là đấng Tiên tri của Đức Chúa Trời, cách đây hơn 3000 năm, đã thốt lên những lời cảm thán sau đây về loài người:
Khi tôi nhìn xem các từng trời là công việc của ngón tay Chúa,
Mặt trăng và các ngôi sao mà Chúa đã đặt,
Loài người là gì, mà Chúa nhớ đến?
Con loài người là chi, mà Chúa thăm viếng nó?
Chúa làm người kém Đức Chúa Trời một chút,
Đội cho người sự vinh hiển và sang trọng.
Chúa ban cho người quyền cai trị công việc tay Chúa làm,
Khiến muôn vật phục dưới chân người…
[Thi-thiên 8:3-6]
Vậy loài người là gì mà Chúa đã dựng nên, chỉ “kém Đức Chúa Trời một chút”, “Đội cho người sự vinh hiển và sang trọng”, lại “ban cho người quyền cai trị công việc tay Chúa làm” ?
Theo Kinh Thánh thì có 5 điểm chính yếu sau đây về sự cao trọng phi thường của con người:
1. Con người là con của Thiên Chúa, và là dòng dõi của Thiên Chúa:
Theo như sự khải thị của Kinh Thánh trong Sách Lu-ca 3:38, thì Con người là con của Thiên Chúa, và trong Sách Công-vụ các Sứ-đồ 17:28-29, thì Loài người là dòng dõi của Ngài. Điều đó có nghĩa rằng Đức Chúa Trời vừa là Đấng Sáng Tạo, lại vừa là Cha của mỗi người chúng ta.
Về mặt sáng tạo, con người đã được dựng nên có một phương diện giống như mọi sinh vật, đó là chỉ có các sinh vật thọ tạo đầu tiên là đã được sáng tạo một cách trực tiếp, mà khoa Thần học gọi là “Sự Sáng tạo Trực tiếp”, còn các sinh vật thọ tạo từ thế hệ thứ hai trở về sau, thì đều được sáng tạo bằng định lệ, hay công lệ sinh nở lưu truyền, mà khoa Thần học gọi là “Sự Sáng tạo theo Định lệ”.
Nhưng về mặt sinh sản, thì duy nhất chỉ có con người là đã được Đức Chúa Trời sanh ra. Ngài sanh con người đầu tiên bằng cách làm nên thân thể con người, rồi hà hơi sống của chính Ngài vào lỗ mũi, và “người trở nên một loài sanh linh” [Sáng-thế Ký 2:7].
Hệ quả của sự kiện nầy là trước hết, vì con người là con và dòng dõi của Thiên Chúa, cho nên giữa Ngài với con người có một mối quan hệ hữu cơ, hay nói theo cách nói ngày nay, thì trong cả vũ trụ, chỉ có con người là mang DNA của Ngài. Cũng chính vì đó mà tình yêu của Ngài dành cho con người là tình yêu vô cùng vượt trội lên trên tất cả mọi tình yêu khác. Ngài thương yêu con người bằng một tình yêu tự nhiên, mạnh mẽ và sâu xa, vượt quá mọi sự suy tưởng hay hiểu biết của chính con người. Kinh Thánh cho biết rằng tình yêu thương của Chúa “rung động” trong mình Chúa, lòng thương xót của Chúa “nóng nảy” trong Chúa. Vì vậy, khi thấy con người vì phạm tội mà phải chết, phải hư mất, tức là phân rẽ khỏi Ngài, gãy đổ mối quan hệ Cha-Con với Ngài [Lu-ca 15:24,32] và trở nên “con bội nghịch” hay “con phản loạn” [Ê-phê-sô 2:2, 5:6] thì lòng Ngài tan vỡ. Ngài cực kỳ đau đớn khi thấy con cái dòng dõi mình bị kẻ thù Ngài lừa gạt đến đỗi bỏ Cha mình, xây lưng lại với Cha mình đi theo nó, trở thành nô lệ cho nó, phải một đời khốn khổ hầu hạ nó, và cuối cùng phải bị hình phạt chung với nó.
Đây là nỗi đau của một người Cha đau, trong hoàn cảnh đứa con yêu quý, xinh đẹp, sang trọng của mình bị một tên bất lương lừa gạt, phải làm đầy tớ cho nó cho đến ngày chết, mà không dứt ra được. Chính vì sự đau đớn nầy mà đã khiến Ngài quyết lòng ban Con Độc Sanh của Ngài, tức là Ngôi Hai Thiên Chúa, đến thế gian chịu chết chuộc tội. Hành động táo bạo, và rúng động trời đất nầy, của Ngài, là để mở một con đường, bắt một cây cầu, hầu cho con người có đường quay trở lại, và cũng để cho lòng con người chịu cảm động mà quay trở lại. Việc giữa Ngài với con người tái lập lại mối liên hệ Cha-Con, và lại sẽ sống trong mối quan hệ Cha-Con ngọt ngào nầy Kinh Thánh gọi là “sự sống đời đời”, “sự sống vĩnh phúc”, hay “sự sống sung mãn”… vì sự sống nầy chẳng những tràn đầy phước ân, phong phú, dư dật, mà sẽ còn cứ kéo dài cho đến đời đời, nghĩa là lâu dài mãi mãi. Gần hai ngàn năm trước, Kinh Thánh đã giải thích sự việc nầy như sau:
“Vì Đức Chúa Trời yêu thương thế gian, đến nỗi đã ban Con một của Ngài, hầu cho hễ ai tin Con ấy không bị hư mất mà được sự sống đời đời. Vả, sự sống đời đời là nhận biết Cha, tức là Đức Chúa Trời có một và thật, cùng Jêsus Christ, là Đấng Cha đã sai đến”.[Giăng 3:16, 17:3]
Và chính Đức Chúa Jêsus cũng đã có cùng một ý đó khi Ngài phán: “Ta đã đến, hầu cho chiên được sự sống và được sự sống dư dật.” [Giăng 10:10]
Để mặc khải cho con người, Đức Chúa Trời phải dùng ngôn ngữ và văn hóa của con người, chứ thật ra “sự sống đời đời”, “sự sống vĩnh phúc”, hay “sự sống dư dật” là những gì rất sâu xa, mà chỉ khi nào con người nếm trải rồi, kinh nghiệm rồi, đã sống từng phút giây trong sự nhận biết liên tục Đức Chúa Trời là Cha mình, Đức Chúa Jêsus là Cứu Chúa của mình rồi, thì mới có thể cảm nhận một cách đầy đủ được.
2. Con người là tạo vật duy nhứt được Thiên Chúa dựng nên theo “hình” Thiên Chúa.
Trong buổi tạo hóa, Ba Ngôi Đức Chúa Trời phán: “Chúng ta hãy làm nên loài người như hình ta…” [Sáng-thế Ký 1:26]. Để ý chữ “chúng ta” và “ta” tại đây chúng ta sẽ thấy rằng tuy có ba Ngôi vị là Đức Chúa Cha, Đức Chúa Con, hay còn gọi là “Con Một”, và Đức Thánh Linh, nhưng chỉ có một Đức Chúa Trời duy nhứt, là Thiên Chúa, và loài người được dựng nên theo “hình” của Đức Chúa Trời có một không hai nầy.
Việc loài người được được dựng nên theo “hình” Thiên Chúa nầy khiến cho con người có được, hay được “đội” cho sự vinh hiển và sang trọng. Sự vinh hiển sang trọng của con người trong buổi ban đầu có lẽ còn hơn cả sự vinh hiển sang trọng của các vị Thiên sứ, vì “Chúa làm con người chỉ kém Đức Chúa Trời một chút”.
Như vậy, trong buổi sáng tạo, khi chưa bị phạm tội, thì chính ra con người “rao truyền sự vinh hiển của Đức Chúa Trời” và “giải tỏ công việc tay Ngài làm” còn hơn cả các từng trời và bầu trời nữa kia. Chỉ có sau nầy khi đã phạm tội rồi, con người mới “thiếu mất sự vinh hiển của Đức Chúa Trời” đi mà thôi [Rô-ma 3:23]. Và “vinh quang đã bị đánh mất” của con người là một trong những nỗi đau hàng đầu của Thiên Chúa, là Cha, đồng thời việc khôi phục lại vinh quang đó, là điều mà Ngài cương quyết thực hiện cho kỳ được.
Lại cũng vì đã được tạo dựng nên theo “hình” của Ngài, cho nên khi Thiên Chúa nhìn vào mỗi con người chúng ta, Ngài thấy có hình ảnh của Ngài trong đó, y như người cha nhìn thấy hình ảnh của chính mình trong mỗi một đứa con. Điều nầy khiến cho Ngài chẳng những cảm thấy yêu con người, mà Ngài cũng còn cảm thấy hãnh diện về con người. Làm cho Ngài được hãnh diện là điều mà Ngài hằng trông đợi nơi con người.
Rồi đến cả các Thiên sứ, cũng vì con người là con, và dòng dõi của Chúa, và cũng vì khi nhìn vào con người thấy có hình ảnh của Đức Chúa Trời trong đó, cho nên tất cả các thiên sứ của Chúa thay thảy đều rất tôn trọng con người, và rất sẵn sàng phục vụ con người. Kinh Thánh cho biết: Các thiên sứ đều là thần hầu việc Đức Chúa Trời, đã được sai xuống để giúp việc những người sẽ hưởng cơ nghiệp cứu rỗi, tức là những người rồi đây sẽ nhận lại được vinh quang đã mất khi sa ngã phạm tội [Hê-bơ-rơ 1:14].
Còn đối với muôn loài vạn vật khác, thì vì con người là con và dòng dõi của Chúa, vì khi nhìn vào con người thấy có hình ảnh của Chúa trong đó, và lại được dựng nên khôn ngoan hơn muôn vật, nên mọi loài trên đất, từ các loài chim trời, các vật hành động trên đất, cùng các cá biển, đều kinh khủng con người. Mọi vật đó đều được giao vào tay người, phục dưới chân người, khiến con người có đầy đủ khả năng để quản trị, và cũng được Chúa chính thức giao cho sứ mạng quản trị chúng một cách nhơn từ và khôn ngoan [Sáng-thế Ký 9:2, 1:26]. Quản trị thế giới là đặc quyền và sứ mạng mà Chúa giao cho con người.
3. Con người là tạo vật duy nhất được Thiên Chúa dựng nên theo “tượng” Thiên Chúa.
Trong buổi tạo hóa, Ba Ngôi Đức Chúa Trời phán: “Chúng ta hãy làm nên loài người…theo tượng ta” [Sáng-thế Ký 1:26].
“Hình” thể hiện trên một mặt phẳng, thuộc về không gian hai chiều, nhưng “tượng” thuộc về không gian ba chiều, vì tượng có khối lượng, tượng có dung tích, tượng có sức chứa.
Vì đã được dựng theo “tượng” của Chúa, nên chẳng những vẻ ngoài của con người có mang hình ảnh của Thiên Chúa, mà còn hơn thế nữa, trong mỗi người bề trong (inner man) của từng người, đều có được một dung tích, một khoảng trống, vừa vặn để cho Thiên Chúa ngự trị, để cho Thiên Chúa có thể làm đầy.
Vì Thiên Chúa đã có chủ định là chính Ngài sẽ chiếm hữu khoảng trống đó, nên khoảng trống đó không thể vừa vặn, hay lấp đầy bởi bất cứ một vật gì khác, hay một điều nào khác : Dầu cho to lớn như biệt thự, lâu đài, hay bé nhỏ như kim cương, đá quý ; Dầu cho hữu hình như xe cộ, đất đai, hay vô hình như danh vọng quyền thế, cũng không thể nào lấp đầy khoảng trống đó được. Lý do giản dị là vì con người đã không được Thiên Chúa dựng nên theo “tượng” của những vật đó, hay của những điều đó.
Cũng do chính vì điều nầy mà đã khiến cho con người trở thành một hữu thể duy nhứt trong cả vũ trụ mà chính Thiên Chúa có thể ngự, và luôn luôn khao khát để được ngự vào bên trong. Ngài ngự vào để cùng chúng ta chia xẻ niềm hạnh phúc riêng tư, và niềm bình an, bình tịnh sâu xa. Dùng một hình ảnh rất ấn tượng, có lần Đức Chúa Jêsus Ngài đã phán: “Nầy, ta đứng ngoài cửa mà gõ; nếu ai nghe tiếng ta mà mở cửa cho, thì ta sẽ vào cùng người ấy, ăn bữa tối với người, và người với ta”. [Khải-huyền 3:20]
Và cũng do chính vì điều nầy mà những nỗi cô đơn, trống rỗng, chán nản, đã trở thành một tâm trạng phổ biến nơi con người, mỗi khi con người vắng bóng Thiên Chúa. Lại cũng chính vì điều nầy mà con người luôn luôn khao khát muốn chiếm hữu thêm (của cải, danh vọng, quyền thế, khoái lạc…), để mà có, để mà lấp đầy. Từ thế hệ nầy qua thế hệ khác, con người vẫn từng ngày tìm kiếm, dầu rằng con người ngay từ các thời đại xa xưa, cũng đã từng kinh nghiệm rằng dẫu cho có thêm vào bao nhiêu nữa cũng không đủ, có đổ vào bao nhiêu nữa cũng không lấp đầy được, cũng không làm cho lòng người được thỏa mãn, cho đến chừng được hoàn toàn thỏa mãn do sự ngự trị của chính mình Ngài.
Augustine of Hippo (354-430AD), mà người ta thường gọi là Thánh Augustine, là người mà đã từng trải qua một thời trai trẻ giàu có, ăn chơi trác táng, săn đuổi mọi dục vọng trần gian, trước khi gặp được Chúa, đã từng ghi lại trong quyển “Những Lời Tự Thú” (Confessions) những lời nầy rằng: “Chúa ôi, vì chúng con đã được dựng nên cho chính Ngài (ngự trị), cho nên Chúa ôi, lòng chúng con sẽ chẳng bao giờ được an nghỉ, cho đến chừng lòng đó tìm được sự an nghỉ trong Ngài” (“Thou hast made us for thyself, O Lord, and our heart is restless until it finds its rest in thee.”).
4. Con người là tạo vật duy nhất được Thiên Chúa dựng nên bằng sinh khí của Thiên Chúa.
Trong buổi tạo hóa, Đấng Sáng Tạo làm nên thân thể con người, rồi hà hơi sống của chính Ngài vào lỗ mũi, và “người trở nên một loài sanh linh” [Sáng-thế Ký 2:7], tức là trở nên một linh hồn sống (a living soul).
Người Trung hoa Cổ đại, mà văn hóa, và văn tự (tượng hình và hội ý) của họ còn được thừa hưởng và phản ánh khá nhiều từ lẽ thật Sáng tạo, đã nói: “Thiên sanh vạn vật, duy nhân tối linh”. Ý tưởng nầy tuy do sử dụng ngôn ngữ bình dân, có sự không chính xác, vì sấp nhập giữa “sáng tạo” và “sanh” ; nhưng “duy nhân tối linh” là đúng, vì con người là con, và là dòng dõi của Chân Thần, được sinh ra từ sanh khí của Đấng Sáng Tạo Uy Linh.
Vì là một một loài sanh linh, nghĩa là một loài có linh tánh đến từ chính Chúa, cho nên mỗi một người trong chúng ta đều có một khả năng thông công ngọt ngào, tương giao thân mật với Chúa, kính mến Chúa, và yêu thương Chúa. Và ngược lại, cũng vì chính điều đó mà Chúa luôn luôn khao khát được giao thông với mỗi một người chúng ta, tương giao với chúng ta như một người yêu, như một người bạn. Ngài muốn được chúng ta chia xẻ với Ngài mọi suy tư từ nơi sâu thẳm của tâm hồn, mọi nỗi niềm phát xuất từ tận đáy lòng của chúng ta. Ngược lại Ngài cũng muốn được chia xẻ tấm lòng Ngài với chúng ta, và được dốc đổ tình yêu của Ngài vào trong mỗi tấm lòng chúng ta.
Vì là một loài sanh linh, nên loài người có một linh hồn bất diệt. Một nhà Thần học đã nhấn mạnh điều nầy khi phát biểu: “Con người là một linh hồn có một thân thể”. Sau khi sa ngã, phạm tội tại vườn Ê-đen, thì “Theo như đã định cho loài người phải chết một lần…[Hê-bơ-rơ 9:27]. Đây là sự chết của thân thể, mà mỗi người trong trần gian cho đến nay đều phải trải qua, để “bụi tro trở vào đất y như nguyên cũ”. Nhưng linh hồn thì bất tử. Sau khi rời khỏi thể xác, mỗi linh hồn, tùy theo sự lựa chọn của mình lúc còn trong xác thịt, hoặc sẽ được tiếp vào an nghỉ nơi Paradise với Chúa, hay là phải vào chốn hình khổ, để chờ ngày sống lại, và “Mạt nhựt Thẩm phán”.
5. Con người là một kỳ quan của vũ trụ đã được Thiên Chúa dựng nên một cách đáng sợ lạ lùng:
Kinh Thánh chép:
Chúa là Cha tôi,
Là Đức Chúa Trời tôi,
Vì chính Chúa nắn nên tâm thần tôi,
Dệt thành tôi trong lòng mẹ tôi.
Tôi cảm tạ Chúa, vì tôi được dựng nên cách đáng sợ lạ lùng,
Công việc Chúa thật lạ lùng, lòng tôi biết rõ lắm.
[Thi-thiên 89:26, 139:13-14]
Các nhà Thần học gọi con người là vương miện của công cuộc sáng tạo. Vì Thiên Chúa là Cha, và vì con người là con, và dòng dõi, của Thiên Chúa [Lu-ca 3:38, Công-vụ 17:29], thế nên trong tất cả các công trình sáng tạo không có sinh vật nào giống như con người, hay sánh với con người được. Trong vũ trụ, con người là cao trọng, vinh hiển, tối linh, và đồng thời cũng là độc đáo nữa.
Trước hết, chỉ nói riêng về phương diện thân thể, con người cũng đã là phi thường và độc đáo. Thật vậy, dầu trên thế gian nầy hiện nay có đến gần 7 tỉ 500 triệu con người, thì mỗi người đều là một cá nhân độc đáo và riêng biệt ở trước mặt Chúa. Không một người nào đã từng sinh ra trên thế gian nầy, đang có mặt trên thế gian nầy, hay sẽ được sinh ra trên thế gian nầy, mà lại hoàn toàn giống với một người nào. Mỗi người đều có một nét riêng biệt, không ai tuyệt đối giống ai. Mỗi người đều có một mã di truyền riêng, một vân tay riêng, một mống mắt riêng…Đầu ngón tay mà chúng ta dùng làm mật hiệu (password) để mở chiếc smart phone, hay để vào thăm tài khoản ngân hàng trên phone của chúng ta, cũng hoàn toàn riêng, không một ai trong vũ trụ nầy có thể trùng lặp. Mống mắt cũng vậy. Người ta nói rằng rồi đây, mỗi lần kiểm tra, máy móc chỉ cần kín đáo quét vào mắt chúng ta, là đọc được mọi dữ kiện số liệu về chúng ta.
Còn về phương diện tinh thần, mỗi người trong trần gian đều có một tánh khí riêng, kinh nghiệm riêng, kỷ niệm riêng, niềm vui nỗi buồn riêng. Nói tóm lại, dầu thế gian có đến gần 7 tỷ rưỡi con người, mỗi người đều là một cá nhân, một nhân vật độc đáo ở trước mặt Chúa. Mỗi người đều được Chúa yêu, được Chúa quý, được Chúa quan tâm, được Chúa chăm sóc, một cách rất riêng, y như là trên cả cõi đời nầy Ngài chỉ lo riêng cho chỉ một mình ta vậy. Mà điều đó là thật. Do sự toàn năng và vô hạn của Ngài, Ngài có thể cùng một lúc dành hết cả tấm lòng, thì giờ, tâm trí, tình cảm của Ngài để sống với từng người, dạy dỗ từng người, dẫn dắt từng người, nghe lời cầu nguyện của từng người, đáp lời từng người, chăn nuôi bảo vệ từng người, giải quyết nan đề của từng người, sống trọn vẹn trong từng cuộc đời của từng người. Điều nầy thật đến nỗi bất cứ một người con nào của Chúa cũng đều có một cảm xúc và kinh nghiệm, y như là trên thế gian nầy, mình là đứa con được Ngài yêu thương quan tâm đặc biệt hơn hết vậy.
Ngoài ra thì trên cả thế gian nầy, và kể cả trong cõi đời đời, mỗi cuộc đời, mỗi đứa con của Chúa, Chúa đều có một chương trình riêng, một kế hoạch riêng. Chương trình đó, kế hoạch đó, nhiều khi chúng ta biết không hết, và làm cho chúng ta bối rối, nhưng cuối cùng nếu chúng ta bằng lòng tin cậy Ngài, bước đi theo Ngài, vâng phục Ngài, và để cho Ngài thực hiện, thì đều sẽ trở nên hoàn hảo, và mỗi cuộc đời của ta đều sẽ là những kiệt tác của vũ trụ, do chính Ngài đã cùng chúng ta xây dựng nên.
Bạn Quý Mến,
Có một nhà khoa học rất thông minh tài giỏi, sau khi dành thì giờ suy gẫm về sự “đáng sợ lạ lùng” của con người trong vũ trụ, đã có một lời cảm thán rằng : “Ôi, nếu một con người kỳ diệu lạ lùng đến như thế nầy, mà sinh ra chỉ để sống một thời gian ngắn ngủi rồi hoàn toàn mất đi, thì thật là vô lý quá, và uổng phí quá”. Đúng là như vậy đó. Đúng là được dựng nên để sống đời đời, và vì để sống đời đời, mà Chúa đã dày công tạo dựng chúng ta, và khi chúng ta còn là người có tội, Đấng Cứu Thế đã vì chúng ta chịu chết, để chúng ta được tha thứ và được sống. Vâng, để được tha thứ, tái sanh, được nhận làm con, được Ngài chăn nuôi dìu dắt trong đời nầy, và sẽ sống đời đời với Ngài trên Thiên đàng bằng một thân thể mới, đã được biến hóa, và vô cùng vinh hiển!
Bạn Quý Mến, cầu nguyện là thưa chuyện cùng Đức Chúa Trời, là Cha Yêu Thương của chúng ta. Điều yếu cần trong sự cầu nguyện là sự cung kính và sự chân thành. Vậy nếu giờ nầy Bạn thấy lòng cảm động muốn đến với Ngài, thì Bạn có thể dâng lên Ngài một vài lời chân thành, bằng chính ngôn từ riêng của mình, dầu một vài lời đơn sơ cũng được.
Bạn cũng có thể dâng lên cho Chúa một lời cầu nguyện tương tự như lời cầu nguyện dưới đây, hoặc đọc những lời cầu nguyện nầy như là lời riêng của Bạn, nếu Bạn muốn:
“Kính lạy Đức Chúa Trời là Cha Yêu Dấu của con,
Là Đấng Tạo Hóa của con, là Đấng Cứu Rỗi của con,
Con cảm ơn Ngài vì Ngài đã dựng nên con một cách đáng sợ lạ lùng,
Con biết Ngài thương yêu Con vô cùng, và muốn con trở lại cùng Ngài,
Để được sống bên Ngài một cuộc đời phước hạnh, bình an trong đời nầy ;
Và sẽ được sống đời đời với Ngài trong Thiên đàng, trong đời tương lai.
Nhưng Chúa ôi, con là một tội nhơn, con không thể nào đến được với Ngài,
Vậy giờ nầy con xin Ngài lấy huyết của Ðức Chúa Jesus Christ rửa sạch tội lỗi con,
Và tha thứ con, tiếp nhận con trong Danh của Ðức Chúa Jesus Christ, Cứu Chúa con,
Là Đấng đã chịu chết thay cho con một cách đau đớn trên thập tự giá, để gánh mọi tội con,
Và đã phục sinh một cách vinh quang để bảo đảm cho con được thừa hưởng Thiên đàng vinh hiển.
Chúa ơi, giờ nầy con xin rộng mở tấm lòng con ra, cầu xin Ngài bước vào ngự trị,
Để đổi mới lòng con, để đổi mới tâm tánh con, để đổi mới cuộc đời con, để đổi mới tương lai con.
Kể từ giờ phút nầy con xin tôn Ngài làm Chủ, làm Vua trên Ngai lòng của con cho đến đời đời mãi mãi,
Xin Ngài ban phước cho đời con trong từng giây phút con sống, trong từng mỗi công việc tay con làm,
Xin Ngài dạy dỗ con trong mọi ý con nghĩ, mọi lời con nói, dẫn dắt con trong từng bước chân con đi.
Kể từ đây xin Ngài luôn luôn ở cùng con, sống trong con, khiến con thành một nguồn ơn phước,
Để con sẽ chuyển tải ơn phước của Ngài cho thế giới mà con sẽ đi qua.
Xin Ngài hằng phút giây che chở con, bảo vệ con: trong, ngoài, sau, trước,
Ban cho con luôn được ơn trước mặt Thiên Chúa và trước mặt loài người.
Làm việc gì cũng đều được thành công, may mắn, và thạnh vượng.
Con cầu nguyện trong Danh Cứu Chúa Jesus, Amen”.
Khi tôi nhìn xem các từng trời là công việc của ngón tay Chúa,
Mặt trăng và các ngôi sao mà Chúa đã đặt,
Loài người là gì, mà Chúa nhớ đến?
Con loài người là chi, mà Chúa thăm viếng nó?
Chúa làm người kém Đức Chúa Trời một chút,
Đội cho người sự vinh hiển và sang trọng.
Chúa ban cho người quyền cai trị công việc tay Chúa làm,
Khiến muôn vật phục dưới chân người…
[Thi-thiên 8:3-6]
Vậy loài người là gì mà Chúa đã dựng nên, chỉ “kém Đức Chúa Trời một chút”, “Đội cho người sự vinh hiển và sang trọng”, lại “ban cho người quyền cai trị công việc tay Chúa làm” ?
Theo Kinh Thánh thì có 5 điểm chính yếu sau đây về sự cao trọng phi thường của con người:
1. Con người là con của Thiên Chúa, và là dòng dõi của Thiên Chúa:
Theo như sự khải thị của Kinh Thánh trong Sách Lu-ca 3:38, thì Con người là con của Thiên Chúa, và trong Sách Công-vụ các Sứ-đồ 17:28-29, thì Loài người là dòng dõi của Ngài. Điều đó có nghĩa rằng Đức Chúa Trời vừa là Đấng Sáng Tạo, lại vừa là Cha của mỗi người chúng ta.
Về mặt sáng tạo, con người đã được dựng nên có một phương diện giống như mọi sinh vật, đó là chỉ có các sinh vật thọ tạo đầu tiên là đã được sáng tạo một cách trực tiếp, mà khoa Thần học gọi là “Sự Sáng tạo Trực tiếp”, còn các sinh vật thọ tạo từ thế hệ thứ hai trở về sau, thì đều được sáng tạo bằng định lệ, hay công lệ sinh nở lưu truyền, mà khoa Thần học gọi là “Sự Sáng tạo theo Định lệ”.
Nhưng về mặt sinh sản, thì duy nhất chỉ có con người là đã được Đức Chúa Trời sanh ra. Ngài sanh con người đầu tiên bằng cách làm nên thân thể con người, rồi hà hơi sống của chính Ngài vào lỗ mũi, và “người trở nên một loài sanh linh” [Sáng-thế Ký 2:7].
Hệ quả của sự kiện nầy là trước hết, vì con người là con và dòng dõi của Thiên Chúa, cho nên giữa Ngài với con người có một mối quan hệ hữu cơ, hay nói theo cách nói ngày nay, thì trong cả vũ trụ, chỉ có con người là mang DNA của Ngài. Cũng chính vì đó mà tình yêu của Ngài dành cho con người là tình yêu vô cùng vượt trội lên trên tất cả mọi tình yêu khác. Ngài thương yêu con người bằng một tình yêu tự nhiên, mạnh mẽ và sâu xa, vượt quá mọi sự suy tưởng hay hiểu biết của chính con người. Kinh Thánh cho biết rằng tình yêu thương của Chúa “rung động” trong mình Chúa, lòng thương xót của Chúa “nóng nảy” trong Chúa. Vì vậy, khi thấy con người vì phạm tội mà phải chết, phải hư mất, tức là phân rẽ khỏi Ngài, gãy đổ mối quan hệ Cha-Con với Ngài [Lu-ca 15:24,32] và trở nên “con bội nghịch” hay “con phản loạn” [Ê-phê-sô 2:2, 5:6] thì lòng Ngài tan vỡ. Ngài cực kỳ đau đớn khi thấy con cái dòng dõi mình bị kẻ thù Ngài lừa gạt đến đỗi bỏ Cha mình, xây lưng lại với Cha mình đi theo nó, trở thành nô lệ cho nó, phải một đời khốn khổ hầu hạ nó, và cuối cùng phải bị hình phạt chung với nó.
Đây là nỗi đau của một người Cha đau, trong hoàn cảnh đứa con yêu quý, xinh đẹp, sang trọng của mình bị một tên bất lương lừa gạt, phải làm đầy tớ cho nó cho đến ngày chết, mà không dứt ra được. Chính vì sự đau đớn nầy mà đã khiến Ngài quyết lòng ban Con Độc Sanh của Ngài, tức là Ngôi Hai Thiên Chúa, đến thế gian chịu chết chuộc tội. Hành động táo bạo, và rúng động trời đất nầy, của Ngài, là để mở một con đường, bắt một cây cầu, hầu cho con người có đường quay trở lại, và cũng để cho lòng con người chịu cảm động mà quay trở lại. Việc giữa Ngài với con người tái lập lại mối liên hệ Cha-Con, và lại sẽ sống trong mối quan hệ Cha-Con ngọt ngào nầy Kinh Thánh gọi là “sự sống đời đời”, “sự sống vĩnh phúc”, hay “sự sống sung mãn”… vì sự sống nầy chẳng những tràn đầy phước ân, phong phú, dư dật, mà sẽ còn cứ kéo dài cho đến đời đời, nghĩa là lâu dài mãi mãi. Gần hai ngàn năm trước, Kinh Thánh đã giải thích sự việc nầy như sau:
“Vì Đức Chúa Trời yêu thương thế gian, đến nỗi đã ban Con một của Ngài, hầu cho hễ ai tin Con ấy không bị hư mất mà được sự sống đời đời. Vả, sự sống đời đời là nhận biết Cha, tức là Đức Chúa Trời có một và thật, cùng Jêsus Christ, là Đấng Cha đã sai đến”.[Giăng 3:16, 17:3]
Và chính Đức Chúa Jêsus cũng đã có cùng một ý đó khi Ngài phán: “Ta đã đến, hầu cho chiên được sự sống và được sự sống dư dật.” [Giăng 10:10]
Để mặc khải cho con người, Đức Chúa Trời phải dùng ngôn ngữ và văn hóa của con người, chứ thật ra “sự sống đời đời”, “sự sống vĩnh phúc”, hay “sự sống dư dật” là những gì rất sâu xa, mà chỉ khi nào con người nếm trải rồi, kinh nghiệm rồi, đã sống từng phút giây trong sự nhận biết liên tục Đức Chúa Trời là Cha mình, Đức Chúa Jêsus là Cứu Chúa của mình rồi, thì mới có thể cảm nhận một cách đầy đủ được.
2. Con người là tạo vật duy nhứt được Thiên Chúa dựng nên theo “hình” Thiên Chúa.
Trong buổi tạo hóa, Ba Ngôi Đức Chúa Trời phán: “Chúng ta hãy làm nên loài người như hình ta…” [Sáng-thế Ký 1:26]. Để ý chữ “chúng ta” và “ta” tại đây chúng ta sẽ thấy rằng tuy có ba Ngôi vị là Đức Chúa Cha, Đức Chúa Con, hay còn gọi là “Con Một”, và Đức Thánh Linh, nhưng chỉ có một Đức Chúa Trời duy nhứt, là Thiên Chúa, và loài người được dựng nên theo “hình” của Đức Chúa Trời có một không hai nầy.
Việc loài người được được dựng nên theo “hình” Thiên Chúa nầy khiến cho con người có được, hay được “đội” cho sự vinh hiển và sang trọng. Sự vinh hiển sang trọng của con người trong buổi ban đầu có lẽ còn hơn cả sự vinh hiển sang trọng của các vị Thiên sứ, vì “Chúa làm con người chỉ kém Đức Chúa Trời một chút”.
Như vậy, trong buổi sáng tạo, khi chưa bị phạm tội, thì chính ra con người “rao truyền sự vinh hiển của Đức Chúa Trời” và “giải tỏ công việc tay Ngài làm” còn hơn cả các từng trời và bầu trời nữa kia. Chỉ có sau nầy khi đã phạm tội rồi, con người mới “thiếu mất sự vinh hiển của Đức Chúa Trời” đi mà thôi [Rô-ma 3:23]. Và “vinh quang đã bị đánh mất” của con người là một trong những nỗi đau hàng đầu của Thiên Chúa, là Cha, đồng thời việc khôi phục lại vinh quang đó, là điều mà Ngài cương quyết thực hiện cho kỳ được.
Lại cũng vì đã được tạo dựng nên theo “hình” của Ngài, cho nên khi Thiên Chúa nhìn vào mỗi con người chúng ta, Ngài thấy có hình ảnh của Ngài trong đó, y như người cha nhìn thấy hình ảnh của chính mình trong mỗi một đứa con. Điều nầy khiến cho Ngài chẳng những cảm thấy yêu con người, mà Ngài cũng còn cảm thấy hãnh diện về con người. Làm cho Ngài được hãnh diện là điều mà Ngài hằng trông đợi nơi con người.
Rồi đến cả các Thiên sứ, cũng vì con người là con, và dòng dõi của Chúa, và cũng vì khi nhìn vào con người thấy có hình ảnh của Đức Chúa Trời trong đó, cho nên tất cả các thiên sứ của Chúa thay thảy đều rất tôn trọng con người, và rất sẵn sàng phục vụ con người. Kinh Thánh cho biết: Các thiên sứ đều là thần hầu việc Đức Chúa Trời, đã được sai xuống để giúp việc những người sẽ hưởng cơ nghiệp cứu rỗi, tức là những người rồi đây sẽ nhận lại được vinh quang đã mất khi sa ngã phạm tội [Hê-bơ-rơ 1:14].
Còn đối với muôn loài vạn vật khác, thì vì con người là con và dòng dõi của Chúa, vì khi nhìn vào con người thấy có hình ảnh của Chúa trong đó, và lại được dựng nên khôn ngoan hơn muôn vật, nên mọi loài trên đất, từ các loài chim trời, các vật hành động trên đất, cùng các cá biển, đều kinh khủng con người. Mọi vật đó đều được giao vào tay người, phục dưới chân người, khiến con người có đầy đủ khả năng để quản trị, và cũng được Chúa chính thức giao cho sứ mạng quản trị chúng một cách nhơn từ và khôn ngoan [Sáng-thế Ký 9:2, 1:26]. Quản trị thế giới là đặc quyền và sứ mạng mà Chúa giao cho con người.
3. Con người là tạo vật duy nhất được Thiên Chúa dựng nên theo “tượng” Thiên Chúa.
Trong buổi tạo hóa, Ba Ngôi Đức Chúa Trời phán: “Chúng ta hãy làm nên loài người…theo tượng ta” [Sáng-thế Ký 1:26].
“Hình” thể hiện trên một mặt phẳng, thuộc về không gian hai chiều, nhưng “tượng” thuộc về không gian ba chiều, vì tượng có khối lượng, tượng có dung tích, tượng có sức chứa.
Vì đã được dựng theo “tượng” của Chúa, nên chẳng những vẻ ngoài của con người có mang hình ảnh của Thiên Chúa, mà còn hơn thế nữa, trong mỗi người bề trong (inner man) của từng người, đều có được một dung tích, một khoảng trống, vừa vặn để cho Thiên Chúa ngự trị, để cho Thiên Chúa có thể làm đầy.
Vì Thiên Chúa đã có chủ định là chính Ngài sẽ chiếm hữu khoảng trống đó, nên khoảng trống đó không thể vừa vặn, hay lấp đầy bởi bất cứ một vật gì khác, hay một điều nào khác : Dầu cho to lớn như biệt thự, lâu đài, hay bé nhỏ như kim cương, đá quý ; Dầu cho hữu hình như xe cộ, đất đai, hay vô hình như danh vọng quyền thế, cũng không thể nào lấp đầy khoảng trống đó được. Lý do giản dị là vì con người đã không được Thiên Chúa dựng nên theo “tượng” của những vật đó, hay của những điều đó.
Cũng do chính vì điều nầy mà đã khiến cho con người trở thành một hữu thể duy nhứt trong cả vũ trụ mà chính Thiên Chúa có thể ngự, và luôn luôn khao khát để được ngự vào bên trong. Ngài ngự vào để cùng chúng ta chia xẻ niềm hạnh phúc riêng tư, và niềm bình an, bình tịnh sâu xa. Dùng một hình ảnh rất ấn tượng, có lần Đức Chúa Jêsus Ngài đã phán: “Nầy, ta đứng ngoài cửa mà gõ; nếu ai nghe tiếng ta mà mở cửa cho, thì ta sẽ vào cùng người ấy, ăn bữa tối với người, và người với ta”. [Khải-huyền 3:20]
Và cũng do chính vì điều nầy mà những nỗi cô đơn, trống rỗng, chán nản, đã trở thành một tâm trạng phổ biến nơi con người, mỗi khi con người vắng bóng Thiên Chúa. Lại cũng chính vì điều nầy mà con người luôn luôn khao khát muốn chiếm hữu thêm (của cải, danh vọng, quyền thế, khoái lạc…), để mà có, để mà lấp đầy. Từ thế hệ nầy qua thế hệ khác, con người vẫn từng ngày tìm kiếm, dầu rằng con người ngay từ các thời đại xa xưa, cũng đã từng kinh nghiệm rằng dẫu cho có thêm vào bao nhiêu nữa cũng không đủ, có đổ vào bao nhiêu nữa cũng không lấp đầy được, cũng không làm cho lòng người được thỏa mãn, cho đến chừng được hoàn toàn thỏa mãn do sự ngự trị của chính mình Ngài.
Augustine of Hippo (354-430AD), mà người ta thường gọi là Thánh Augustine, là người mà đã từng trải qua một thời trai trẻ giàu có, ăn chơi trác táng, săn đuổi mọi dục vọng trần gian, trước khi gặp được Chúa, đã từng ghi lại trong quyển “Những Lời Tự Thú” (Confessions) những lời nầy rằng: “Chúa ôi, vì chúng con đã được dựng nên cho chính Ngài (ngự trị), cho nên Chúa ôi, lòng chúng con sẽ chẳng bao giờ được an nghỉ, cho đến chừng lòng đó tìm được sự an nghỉ trong Ngài” (“Thou hast made us for thyself, O Lord, and our heart is restless until it finds its rest in thee.”).
4. Con người là tạo vật duy nhất được Thiên Chúa dựng nên bằng sinh khí của Thiên Chúa.
Trong buổi tạo hóa, Đấng Sáng Tạo làm nên thân thể con người, rồi hà hơi sống của chính Ngài vào lỗ mũi, và “người trở nên một loài sanh linh” [Sáng-thế Ký 2:7], tức là trở nên một linh hồn sống (a living soul).
Người Trung hoa Cổ đại, mà văn hóa, và văn tự (tượng hình và hội ý) của họ còn được thừa hưởng và phản ánh khá nhiều từ lẽ thật Sáng tạo, đã nói: “Thiên sanh vạn vật, duy nhân tối linh”. Ý tưởng nầy tuy do sử dụng ngôn ngữ bình dân, có sự không chính xác, vì sấp nhập giữa “sáng tạo” và “sanh” ; nhưng “duy nhân tối linh” là đúng, vì con người là con, và là dòng dõi của Chân Thần, được sinh ra từ sanh khí của Đấng Sáng Tạo Uy Linh.
Vì là một một loài sanh linh, nghĩa là một loài có linh tánh đến từ chính Chúa, cho nên mỗi một người trong chúng ta đều có một khả năng thông công ngọt ngào, tương giao thân mật với Chúa, kính mến Chúa, và yêu thương Chúa. Và ngược lại, cũng vì chính điều đó mà Chúa luôn luôn khao khát được giao thông với mỗi một người chúng ta, tương giao với chúng ta như một người yêu, như một người bạn. Ngài muốn được chúng ta chia xẻ với Ngài mọi suy tư từ nơi sâu thẳm của tâm hồn, mọi nỗi niềm phát xuất từ tận đáy lòng của chúng ta. Ngược lại Ngài cũng muốn được chia xẻ tấm lòng Ngài với chúng ta, và được dốc đổ tình yêu của Ngài vào trong mỗi tấm lòng chúng ta.
Vì là một loài sanh linh, nên loài người có một linh hồn bất diệt. Một nhà Thần học đã nhấn mạnh điều nầy khi phát biểu: “Con người là một linh hồn có một thân thể”. Sau khi sa ngã, phạm tội tại vườn Ê-đen, thì “Theo như đã định cho loài người phải chết một lần…[Hê-bơ-rơ 9:27]. Đây là sự chết của thân thể, mà mỗi người trong trần gian cho đến nay đều phải trải qua, để “bụi tro trở vào đất y như nguyên cũ”. Nhưng linh hồn thì bất tử. Sau khi rời khỏi thể xác, mỗi linh hồn, tùy theo sự lựa chọn của mình lúc còn trong xác thịt, hoặc sẽ được tiếp vào an nghỉ nơi Paradise với Chúa, hay là phải vào chốn hình khổ, để chờ ngày sống lại, và “Mạt nhựt Thẩm phán”.
5. Con người là một kỳ quan của vũ trụ đã được Thiên Chúa dựng nên một cách đáng sợ lạ lùng:
Kinh Thánh chép:
Chúa là Cha tôi,
Là Đức Chúa Trời tôi,
Vì chính Chúa nắn nên tâm thần tôi,
Dệt thành tôi trong lòng mẹ tôi.
Tôi cảm tạ Chúa, vì tôi được dựng nên cách đáng sợ lạ lùng,
Công việc Chúa thật lạ lùng, lòng tôi biết rõ lắm.
[Thi-thiên 89:26, 139:13-14]
Các nhà Thần học gọi con người là vương miện của công cuộc sáng tạo. Vì Thiên Chúa là Cha, và vì con người là con, và dòng dõi, của Thiên Chúa [Lu-ca 3:38, Công-vụ 17:29], thế nên trong tất cả các công trình sáng tạo không có sinh vật nào giống như con người, hay sánh với con người được. Trong vũ trụ, con người là cao trọng, vinh hiển, tối linh, và đồng thời cũng là độc đáo nữa.
Trước hết, chỉ nói riêng về phương diện thân thể, con người cũng đã là phi thường và độc đáo. Thật vậy, dầu trên thế gian nầy hiện nay có đến gần 7 tỉ 500 triệu con người, thì mỗi người đều là một cá nhân độc đáo và riêng biệt ở trước mặt Chúa. Không một người nào đã từng sinh ra trên thế gian nầy, đang có mặt trên thế gian nầy, hay sẽ được sinh ra trên thế gian nầy, mà lại hoàn toàn giống với một người nào. Mỗi người đều có một nét riêng biệt, không ai tuyệt đối giống ai. Mỗi người đều có một mã di truyền riêng, một vân tay riêng, một mống mắt riêng…Đầu ngón tay mà chúng ta dùng làm mật hiệu (password) để mở chiếc smart phone, hay để vào thăm tài khoản ngân hàng trên phone của chúng ta, cũng hoàn toàn riêng, không một ai trong vũ trụ nầy có thể trùng lặp. Mống mắt cũng vậy. Người ta nói rằng rồi đây, mỗi lần kiểm tra, máy móc chỉ cần kín đáo quét vào mắt chúng ta, là đọc được mọi dữ kiện số liệu về chúng ta.
Còn về phương diện tinh thần, mỗi người trong trần gian đều có một tánh khí riêng, kinh nghiệm riêng, kỷ niệm riêng, niềm vui nỗi buồn riêng. Nói tóm lại, dầu thế gian có đến gần 7 tỷ rưỡi con người, mỗi người đều là một cá nhân, một nhân vật độc đáo ở trước mặt Chúa. Mỗi người đều được Chúa yêu, được Chúa quý, được Chúa quan tâm, được Chúa chăm sóc, một cách rất riêng, y như là trên cả cõi đời nầy Ngài chỉ lo riêng cho chỉ một mình ta vậy. Mà điều đó là thật. Do sự toàn năng và vô hạn của Ngài, Ngài có thể cùng một lúc dành hết cả tấm lòng, thì giờ, tâm trí, tình cảm của Ngài để sống với từng người, dạy dỗ từng người, dẫn dắt từng người, nghe lời cầu nguyện của từng người, đáp lời từng người, chăn nuôi bảo vệ từng người, giải quyết nan đề của từng người, sống trọn vẹn trong từng cuộc đời của từng người. Điều nầy thật đến nỗi bất cứ một người con nào của Chúa cũng đều có một cảm xúc và kinh nghiệm, y như là trên thế gian nầy, mình là đứa con được Ngài yêu thương quan tâm đặc biệt hơn hết vậy.
Ngoài ra thì trên cả thế gian nầy, và kể cả trong cõi đời đời, mỗi cuộc đời, mỗi đứa con của Chúa, Chúa đều có một chương trình riêng, một kế hoạch riêng. Chương trình đó, kế hoạch đó, nhiều khi chúng ta biết không hết, và làm cho chúng ta bối rối, nhưng cuối cùng nếu chúng ta bằng lòng tin cậy Ngài, bước đi theo Ngài, vâng phục Ngài, và để cho Ngài thực hiện, thì đều sẽ trở nên hoàn hảo, và mỗi cuộc đời của ta đều sẽ là những kiệt tác của vũ trụ, do chính Ngài đã cùng chúng ta xây dựng nên.
Bạn Quý Mến,
Có một nhà khoa học rất thông minh tài giỏi, sau khi dành thì giờ suy gẫm về sự “đáng sợ lạ lùng” của con người trong vũ trụ, đã có một lời cảm thán rằng : “Ôi, nếu một con người kỳ diệu lạ lùng đến như thế nầy, mà sinh ra chỉ để sống một thời gian ngắn ngủi rồi hoàn toàn mất đi, thì thật là vô lý quá, và uổng phí quá”. Đúng là như vậy đó. Đúng là được dựng nên để sống đời đời, và vì để sống đời đời, mà Chúa đã dày công tạo dựng chúng ta, và khi chúng ta còn là người có tội, Đấng Cứu Thế đã vì chúng ta chịu chết, để chúng ta được tha thứ và được sống. Vâng, để được tha thứ, tái sanh, được nhận làm con, được Ngài chăn nuôi dìu dắt trong đời nầy, và sẽ sống đời đời với Ngài trên Thiên đàng bằng một thân thể mới, đã được biến hóa, và vô cùng vinh hiển!
Bạn Quý Mến, cầu nguyện là thưa chuyện cùng Đức Chúa Trời, là Cha Yêu Thương của chúng ta. Điều yếu cần trong sự cầu nguyện là sự cung kính và sự chân thành. Vậy nếu giờ nầy Bạn thấy lòng cảm động muốn đến với Ngài, thì Bạn có thể dâng lên Ngài một vài lời chân thành, bằng chính ngôn từ riêng của mình, dầu một vài lời đơn sơ cũng được.
Bạn cũng có thể dâng lên cho Chúa một lời cầu nguyện tương tự như lời cầu nguyện dưới đây, hoặc đọc những lời cầu nguyện nầy như là lời riêng của Bạn, nếu Bạn muốn:
“Kính lạy Đức Chúa Trời là Cha Yêu Dấu của con,
Là Đấng Tạo Hóa của con, là Đấng Cứu Rỗi của con,
Con cảm ơn Ngài vì Ngài đã dựng nên con một cách đáng sợ lạ lùng,
Con biết Ngài thương yêu Con vô cùng, và muốn con trở lại cùng Ngài,
Để được sống bên Ngài một cuộc đời phước hạnh, bình an trong đời nầy ;
Và sẽ được sống đời đời với Ngài trong Thiên đàng, trong đời tương lai.
Nhưng Chúa ôi, con là một tội nhơn, con không thể nào đến được với Ngài,
Vậy giờ nầy con xin Ngài lấy huyết của Ðức Chúa Jesus Christ rửa sạch tội lỗi con,
Và tha thứ con, tiếp nhận con trong Danh của Ðức Chúa Jesus Christ, Cứu Chúa con,
Là Đấng đã chịu chết thay cho con một cách đau đớn trên thập tự giá, để gánh mọi tội con,
Và đã phục sinh một cách vinh quang để bảo đảm cho con được thừa hưởng Thiên đàng vinh hiển.
Chúa ơi, giờ nầy con xin rộng mở tấm lòng con ra, cầu xin Ngài bước vào ngự trị,
Để đổi mới lòng con, để đổi mới tâm tánh con, để đổi mới cuộc đời con, để đổi mới tương lai con.
Kể từ giờ phút nầy con xin tôn Ngài làm Chủ, làm Vua trên Ngai lòng của con cho đến đời đời mãi mãi,
Xin Ngài ban phước cho đời con trong từng giây phút con sống, trong từng mỗi công việc tay con làm,
Xin Ngài dạy dỗ con trong mọi ý con nghĩ, mọi lời con nói, dẫn dắt con trong từng bước chân con đi.
Kể từ đây xin Ngài luôn luôn ở cùng con, sống trong con, khiến con thành một nguồn ơn phước,
Để con sẽ chuyển tải ơn phước của Ngài cho thế giới mà con sẽ đi qua.
Xin Ngài hằng phút giây che chở con, bảo vệ con: trong, ngoài, sau, trước,
Ban cho con luôn được ơn trước mặt Thiên Chúa và trước mặt loài người.
Làm việc gì cũng đều được thành công, may mắn, và thạnh vượng.
Con cầu nguyện trong Danh Cứu Chúa Jesus, Amen”.