TỘI LỖI LÀ GÌ ?
1. Tội lỗi là gì?
Trong Kinh Thánh, là Lời của Đức Chúa Trời, có một định nghĩa rất rõ về “Tội lỗi”:
«Tội lỗi là sự trái luật pháp» [1 Giăng 3:4].
Chữ «Luật pháp» đây là một chữ đặc biệt, một thuật ngữ, để chỉ cho Luật đạo đức của Ngài, tức là những luật lệ, giới mạng, và điều răn của Ngài được chép trong một quyển sách mà Ngài ban cho loài người để loài người sống theo, là quyển Kinh Thánh.
Còn sự «trái luật pháp» ở đây thì bao gồm cả hai mặt: Một mặt, «trái luật pháp» có nghĩa là làm những điều gì Kinh Thánh cấm. Mặt khác, «trái luật pháp» cũng có nghĩa là không làm những điều gì Kinh Thánh truyền phải làm.
Phạm vi của tội còn được Luật pháp Thiên Chúa mở rộng ra tới việc ta bỏ qua những việc phải, những việc lành, những việc đáng làm. Những việc nầy, thường thì dầu nếu ta không làm thì loài người cũng không thể trách, vì là những việc do sự tình nguyện. Trong Luật đời rất hiếm có trường hợp một người bị Tòa án buộc tội vì không làm một việc lành nào đó, trừ ra những trường hợp «cố ý trốn tránh» một cách tàn nhẫn và rất hiển nhiên. Nhưng vì Thiên Chúa là Đấng thấu suốt động cơ lòng người, và thông hiểu mọi hoàn cảnh tình huống, nên Luật pháp Ngài tuyên bố :
«Vậy ai biết điều đúng, đáng phải làm, mà không làm là có tội.» [Gia-cơ 4:17]
Và còn hơn thế nữa, phạm vi của tội còn được Luật pháp Thiên Chúa mở rộng ra tới sự phạm tội trong lòng hay trong tư tưởng, là điều mà Luật đời hoàn toàn không thể chạm tới. Trong một tuyên bố mà về sau trở thành một phần của Hiến Pháp Nước Thiên Đàng, Đức Chúa Jêsus phán:
«Các ngươi có nghe lời phán cho người xưa rằng: Ngươi chớ giết ai; và rằng: Hễ ai giết người thì đáng bị tòa án xử đoán. Song ta phán cho các ngươi: Hễ ai giận anh em mình thì đáng bị tòa án xử đoán …Các ngươi có nghe lời phán rằng: Ngươi chớ phạm tội tà dâm. Song ta phán cho các ngươi biết: Hễ ai ngó đàn bà mà động tình tham muốn, thì trong lòng đã phạm tội tà dâm cùng người rồi.» [Ma-thi-ơ 5:21-30].
2. Vậy nếu một người chưa bao giờ đọc Kinh Thánh, thì hóa ra chẳng có thể biết gì về tội lỗi sao?
Kinh Thánh dạy rằng khi Đức Chúa Trời dựng nên loài người thì Ngài cũng đặt trong lòng họ một bộ luật thiên nhiên, tức là một «lòng lành», mà tiếng Hán Việt gọi là «Lương tâm» (lương là lành, tâm là lòng), còn trong Triết học thì gọi là «Ý thức đạo đức». Chính sự phê phán của Lương tâm, hay của Ý thức đạo đức trong mỗi một người, khiến người ta cảm biết mình có tội hay không, và cũng khiến cho người đó cảm thấy cắn rứt nếu đã phạm tội.
Kinh Thánh chép :
«Vả, dân ngoại vốn không có luật pháp, khi họ tự nhiên làm những việc luật pháp dạy biểu, thì những người ấy dầu không có luật pháp, cũng tự nên luật pháp cho mình. Họ tỏ ra rằng việc mà luật pháp dạy biểu đã ghi trong lòng họ: chính lương tâm mình làm chứng cho luật pháp, còn ý tưởng mình khi thì cáo giác mình, khi thì binh vực mình» [Rô-ma 2:14-15]
Tuy nhiên, Lương tâm vốn chỉ là một bộ luật rất sơ khai, sơ đẳng. Lại sau khi con người đã sa ngã, phạm tội, bản chất đạo đức thay đổi, thì ý thức đạo đức cũng bị thay đổi theo. Các nhà Thần học cho rằng Lương tâm nhân loại sa ngã đã là một tấm kiếng bể vụn, không còn phản ảnh trung thực bản tánh đạo đức của Đấng Sáng Tạo, tức là của Thiên Chúa được nữa.
Vả lại, với những người cứ miệt mài trong tội lỗi, những người bị nhồi nhét bởi những triết lý cao ngạo, «trong lý tưởng hư không, lòng ngu dốt đầy những sự tối tăm» [Rô-ma 1:21] hoặc những người bị ma quỉ lừa dối, bị «chúa đời nầy đã làm mù lòng» [2 Cô-rinh-tô 4:4], thì lương tâm có thể bị chai lì, hoặc bị sự tối tăm phủ lấp, mà làm những việc «vô lương tâm».
Cho nên, thực tế mà nói, trong sự ý thức về Tội lỗi, tuy Lương tâm có đóng một vai trò nhứt định, song chỉ có sự phán quyết của Kinh Thánh mới thật sự là chính xác và đầy đủ.
Và đây cũng là một trong những lý do khiến cho những con cái của Đức Chúa Trời, bất chấp mọi sự khó khăn, cực nhọc, hiểu lầm…cứ bền chí và sốt sắng ra đi rao báo Tin Lành Cứu Rỗi và Lời Hằng Sống của Ngài cho những người chưa được nghe, và những người chưa được cứu.
3. Phải chăng các tội đều bằng nhau, hay có tội nào là nặng hơn mọi tội khác ?
(1) Thứ nhứt, tất nhiên không thể nói các tội đều bằng nhau. Kinh Thánh cho biết : «Có tội đến nỗi chết…mà cũng có tội không đến nỗi chết». [1 Giăng 5:17].
(2) Thứ hai, tội lỗi là phạm những điều Kinh Thánh cấm, và chính lương tâm cũng lên án như : giết người, tà dâm, trộm cắp, làm chứng dối, tham lam…
Nhưng có một tội nặng hơn mọi tội khác !
Tội nặng hơn mọi tội khác, là tội gốc dẫn đến mọi tội, đó là tội phạm đầu tiên mà con người đã phạm khi họ còn ở trong vườn Ê-đen, và đồng thời cũng là tội đầu tiên mà Đức Chúa Trời nghiêm cấm trong điều răn đầu tiên của «Mười Điều Răn», rằng:
«Trước mặt ta, ngươi chớ có các thần khác» [Xuất Ê-díp-tô Ký 20:3]
Đây là tội phản bội Ngài, đứng về phía kẻ thù của Ngài, xây lưng lại với Ngài, và đi theo ma quỉ. Tội nầy khiến cho loài người vốn là «con» và «dòng dõi» của Ngài [Lu-ca 3:38, Công-vụ các Sứ-đồ 17:28-29], trở thành «con bội nghịch» và «con của sự thạnh nộ» [Ê-phê-sô 2:1-3].
Tội nầy nặng đến nỗi đấng tiên tri ngày xưa, đã phải kêu cả trời và đất ra để làm chứng, để con người có thể cảm nhận được một phần nào tính cách trầm trọng của tội phạm:
«Hỡi các từng trời, hãy nghe; hỡi đất, hãy lắng tai; vì Đức Chúa Trời có phán rằng: Ta đã nuôi nấng con cái, trưởng dưỡng chúng nó, song chúng nó dấy loạn nghịch cùng ta. Bò biết chủ mình, lừa biết máng của chủ; song Y-sơ-ra-ên chẳng hiểu biết, dân ta chẳng suy nghĩ. Ôi! nước mắc tội, dân mang lỗi nặng nề, tông giống độc dữ, con cái làm bậy bạ kia! Chúng nó đã lìa bỏ Đức Chúa Trời, khinh lờn Đấng Thánh của Y-sơ-ra-ên, đã trở nên xa lạ và lui đi.» [Ê-sai 1:2-4]
Dầu trên đây là lời trách cứ dân tộc Israel, một dân tộc từng được Đức Chúa Trời chọn lựa, ban phước và sử dụng để đưa Kinh Thánh và đưa Đấng Cứu Thế vào trong thế gian, song lời trách đó vẫn đúng cho mọi dân tộc khác, và nói rộng ra, cho cả nhân loại. Thật ra, ngay cả ở Việt nam ngày xưa, cũng đã từng có người trách rằng :
«Ăn cơm Trời, uống nước Trời, thở khí Trời, sinh ra ở đời được nguyên tuyền toàn vẹn nhờ Trời, mặt mày tốt đẹp, thông minh khôn sáng nhờ Trời cho, bình yên mạnh khỏe nhờ Trời, lâm nguy, tai nạn kêu Trời, sống nhờ Trời, chết chầu Trời, mà lại đi cúi đầu để lạy tạ ơn một cái gốc cây !!!»
4. Nếu đây là tội nặng nhứt, thì hậu quả của tội nầy chắc phải là lớn lắm?
Tất nhiên rồi. Chẳng những đây là tội gốc, đẻ ra mọi tội khác, mà tội nầy cũng là nguyên nhân của tất cả mọi khổ nạn, đau đớn của loài người đương đời bây giờ, cũng như trong đời tương lai.
Tội nầy trước hết làm gãy đổ mối quan hệ Cha-Con giữa Đức Chúa Trời với con người, mà Kinh Thánh gọi là sự chết tâm linh, hay là sự hư mất. Mối quan hệ Cha-Con bị gãy đổ khiến con người rơi vào tình trạng mồ côi. Trong khi đó, cũng chính do tội nầy mà đất bị rủa sả, «sanh chông gai và cây tật lê» và người sẽ phải «làm đổ mồ hôi trán mới có mà ăn»…[Sáng-thế Ký 3:18-19]. Y hệt như một đứa trẻ mồ côi giữa chợ đời, sự việc con người luôn luôn cảm thấy côi cút, cô đơn, bất an, sợ hãi, gian truân, cực nhọc, đói khát, và phải vật lộn với cuộc mưu sinh giữa một thế giới đầy chông gai, đã là hậu quả đầu tiên của tôi phạm nầy.
Tội phạm nầy cũng đã làm biến đổi bản tánh con người, khiến con người trở nên ích kỷ và gian ác tự bề trong một cách triệt để. Kinh Thánh ký thuật thể nào vừa sau khi phạm tội, hai ông bà A-đam đã chối trách nhiệm, và đổ lỗi cho nhau. Rồi đến việc hai con trai của ông bà giết nhau vì ghen tức, rồi đến thù oán, đa thê, và xung đột. Xung đột cá nhân, xung đột gia đình, xung đột cộng đồng, xung đột quốc gia, chiến tranh thế giới…
Rồi đến «Sống là tranh đấu». Con người tranh đấu với thiên nhiên -thiên nhiên bây giờ đã vì tội lỗi mà trở nên khắc nghiệt-, và tranh đấu với chính con người. Con người trở thành một con thú gây sợ hãi lớn nhứt cho chính con người. Hay thậm chí, một số người, như Triết gia Hiện sinh Vô thần Jean Paul Sartre chẳng hạn, còn cảm thấy rằng, người nầy chính là địa ngục của người kia, «L'enfer c'est les autres».
Ngoài «sự chết thuộc linh» tức là sự gãy đổ mối quan hệ Cha-Con giữa Thiên Chúa với con người như đã nói trên, tội lỗi nầy, một cách chắc chắn, còn đem đến hai sự chết khác nữa: Một là sự chết thuộc thể, và hai là sự chết đời đời.
Về «Sự chết thuộc thể», tức là sự phân rẽ giữa linh hồn và thể xác, Kinh Thánh tuyên bố rất rõ ràng và rất dứt khoát, rõ ràng và dứt khoát y như chính sự chết nầy vậy:
«Theo như đã định cho loài người, phải chết một lần, rồi chịu phán xét,» [Hê-bơ-rơ 9:27]
Tùy theo sự chọn lựa của mỗi người lúc còn sống, không đầy năm giây đồng hồ sau khi linh hồn của mỗi người lìa khỏi thể xác, linh hồn đó, hoặc sẽ được nghênh tiếp vào sự hiện diện vinh quang và phước hạnh của Chúa nơi Paradis, hoặc sẽ bị đưa đến chốn hình khổ, để ở đó chờ đợi cho đến «Ngày Phán Xét Cuối Cùng». Đây sẽ là lúc mọi sự xảy ra theo như sự mặc thị mà Sứ đồ Giăng đã nhận được từ chính Đức Chúa Jêsus Christ trên đảo Patmos, trong biển Địa trung hải:
«Bấy giờ tôi thấy một tòa lớn và trắng cùng Đấng đang ngồi ở trên; trước mặt Ngài trời đất đều trốn hết, chẳng còn thấy chỗ nào cho nó nữa. Tôi thấy những kẻ chết, cả lớn và nhỏ, đứng trước tòa, và các sách thì mở ra. Cũng có mở một quyển sách khác nữa, là sách sự sống; những kẻ chết bị xử đoán tùy công việc mình làm, cứ như lời đã biên trong những sách ấy. Biển đem trả những người chết mình chứa; Sự chết và Âm phủ cũng đem trả những người chết mình có. Mỗi người trong bọn đó bị xử đoán tùy công việc mình làm. Đoạn, Sự Chết và Âm phủ bị quăng xuống hồ lửa. Hồ lửa là sự chết thứ hai. Kẻ nào không được biên vào sách sự sống đều bị ném xuống hồ lửa.» [Khải-huyền 20:11-15]
Sự chết thứ hai trong hồ lửa ở đây còn gọi là Sự chết đời đời.
Như vậy, tóm tắt lại, y như lời Kinh Thánh đã phán: «Một mai ngươi ăn (tức là ngươi bất tuân, phạm tội) chắc sẽ chết [Sáng-thế Ký 2:17] và «Tiền công của tội lỗi là sự chết» [Rô-ma 6:23], tội lỗi đầu tiên và lớn nhứt của loài người đã đem đến 3 sự chết: sự chết thuộc linh, sự chết thuộc thể, và sự chết đời đời, cùng với tất cả mọi hệ lụy ghê ghớm, kinh hoàng của nó.
5. Nhưng tại sao tôi lại phải chịu trách nhiệm về tội của người đời xưa ?
Về phương diện tội phạm, chúng ta vẫn bị kể là có tội, dù là gián tiếp phạm tội hay trực tiếp phạm tội, dù là đồng phạm hay chánh phạm, dù là tòng phạm hay chủ mưu. Vậy, nếu hiện nay chúng ta đang nhận ánh mặt trời soi sáng của Ngài, đang thở không khí của Ngài ban cho, mà chưa một lời tạ ơn, và vẫn đang xây lưng lại với Ngài, không biết gì đến Ngài là Đấng Sáng Tạo, là Cha Yêu Thương chúng ta, thì chúng ta đang phạm tội, y như tổ phụ của chúng ta.
Hơn nữa theo sự dạy dỗ của Kinh Thánh, riêng về tội đầu tiên nầy, chúng ta không phải là gián tiếp phạm tội, mà là trực tiếp phạm tội.
???
Vâng. Chúng ta từng trực tiếp phạm tội, và phạm tội tại Vườn Ê-đen, chung và cùng một lúc với Tổ phụ A-đam, khi ông phạm tội.
Tại sao ?
Tại vì lúc ấy chúng ta tất cả đều còn ở trong ông, tức là «còn ở trong lòng tổ phụ».
Đây không phải là vấn đề lý thuyết hay là vấn đề hình bóng. Đây là một sự thực khoa học. Giữa Tổ phụ A-đam với chúng ta mang một mối liên hệ chặt chẽ hữu cơ và vật lý. Không có ông thì cũng không có chúng ta. Đây cũng là lý do mà chữ A-đam trong ngôn ngữ của Kinh Thánh Cựu Ước, vừa là tên riêng của Tổ phụ chúng ta, vừa có nghĩa là một «người đàn ông», lại vừa cũng có nghĩa là cả «loài người».
Kinh Thánh sách Hê-bơ-rơ chương thứ 7 đã làm sáng tỏ lẽ thật nầy khi kể lại rằng Áp-ra-ham, một ngày kia khi đi đánh giặc thắng trận trở về, có Vua Mên-chi-xê-đéc là vua của Thành Sa-lem, mà ngày nay là Jerusalem, ra đón mừng, đãi tiệc, và chúc phước cho. Còn về phần mình, Áp-ra-ham, cũng lấy một phần mười về mọi chiến lợi phẩm mà dâng cho vua đó.
Vào thời điểm dâng hiến cho Mên-chi-xê-đéc, Vua Salem, Áp-ra-ham thật ra cũng chưa có con, và vẫn còn mang tên là Áp-ram, nghĩa là Cha cao quý, chớ chưa phải là Áp-ra-ham, nghĩa là cha của nhiều dân tộc. Vậy đó mà Kinh Thánh Tân Ước về sau dạy rằng khi Áp-ra-ham dâng phần mười cho Mên-chi-xê-đéc, Vua Salem, thì cháu cố của ông, tên là Lê-vi, một trong 12 Tổ phụ của Dân Israel, cũng đã cùng dâng phần mười với ông cố minh, Áp-ra-ham, tại vì lúc đó Lê-vi đang «ở trong lòng tổ phụ». [Hê-bơ-rơ 7:10]
Vậy, trong ánh sáng của lẽ thật từ Kinh Thánh, chúng ta biết rằng, hết thảy chúng ta hôm nay đều đã từng phạm về tội đầu tiên và tội nặng nề nhứt, là tội xây lưng lìa bỏ Đức Chúa Trời, là Cha, thậm chí trở nên đối nghịch với Ngài, là phạm một cách trực tiếp chớ không phải phạm gián tiếp. Chúng ta đã phạm cùng một tội với A-đam, tại chính trong vườn Ê-đen, vì lúc đó mỗi chúng ta đương «ở trong lòng Tổ phụ» mình là A-đam.
6. Vậy thì chúng ta phải làm gì để được cứu ?
Vì tội nặng nhất, lớn nhất, trước nhất, là tội hiện nay đang dẫn chúng ta đến sự chết đời đời, là việc xây lưng lìa bỏ Đức Chúa Trời, nên chúng ta cần phải giải quyết tội nầy trước hết.
Và nếu xây lưng lìa bỏ Đức Chúa Trời là tội, thì giải pháp duy nhứt cho tội nầy là xây mặt lại với Ngài, là quay trở về cùng Ngài.
Xin hãy nghe sau đây, những lời của Đức Chúa Trời tha thiết kêu gọi:
«Hãy tìm kiếm Chúa đang khi mình gặp được;
Hãy kêu cầu Ngài đang khi Ngài ở gần!
Kẻ ác khá bỏ đường lối mình,
Người bất nghĩa khá bỏ các ý tưởng;
Hãy trở lại cùng Chúa, Ngài sẽ thương xót cho,
Hãy đến cùng Đức Chúa Trời chúng ta, vì Ngài tha thứ dồi dào»
[Ê-sai 55:6-7]
Phao lô, một học giả và lãnh tụ tôn giáo Do thái, đã từng có thời chống đối đạo Tin Lành quyết liệt, vì ông cho là lừa dối. Chẳng những chống đối bằng sự ngăn chận, ông còn tổ chức giết hại và truy đuổi những người tin theo Đức Chúa Jêsus khắp mọi nơi.
Nhưng một ngày kia đang khi trên đường đi từ thành Jerusalem đến thành Damascus, thủ đô của nước Syria ngày nay, để bắt bớ các tín nhân, chính Đức Chúa Jêsus đã hiện ra gặp ông, và kể từ đó, tấm lòng, tâm trí, và cả đời sống ông đã hoàn toàn thay đổi [Công-vụ các Sứ-đồ 9:3-9, 1Cô-rinh-tô 9:1, 15:8].
Ông đã quay trở lại cùng Ngài, và dâng cả quảng đời còn lại để làm một giáo sĩ, chịu bao nhiêu điều hiểm nguy khổ nạn, trải qua khắp Tây Á và Nam Âu để rao truyền Ơn Cứu Rỗi của Đức Chúa Trời, và kêu gọi mọi người hãy hòa thuận lại với Cha mình, qua «Của Lễ Giảng Hòa», là sự chết chuộc tội của Cứu Chúa Jêsus.
Trong một bức thư gởi cho Mục sư Timothy, con tinh thần của ông, ông viết:
«Ta cảm tạ Đấng ban thêm sức cho ta, là Đức Chúa Jêsus Christ, Chúa chúng ta, về sự Ngài đã xét ta là trung thành, lập ta làm kẻ giúp việc; ta ngày trước vốn là người phạm thượng, hay bắt bớ, hung bạo, nhưng ta đã đội ơn thương xót, vì ta đã làm những sự đó đang lúc ta ngu muội chưa tin. Ân điển của Chúa chúng ta đã dư dật trong ta, với đức tin cùng sự thương yêu trong Đức Chúa Jêsus Christ. Đức Chúa Jêsus Christ đã đến trong thế gian để cứu vớt kẻ có tội, ấy là lời chắc chắn, đáng đem lòng tin trọn vẹn mà nhận lấy; trong những kẻ có tội đó ta là đầu. Nhưng ta đã đội ơn thương xót, hầu cho Đức Chúa Jêsus Christ tỏ mọi sự nhịn nhục của Ngài ra trong ta là kẻ làm đầu, để dùng ta làm gương cho những kẻ sẽ tin Ngài được sự sống đời đời. Nguyền xin sự tôn quí, vinh hiển đời đời vô cùng về nơi Vua muôn đời, không hề hư nát, không thấy được, tức là Đức Chúa Trời có một mà thôi! A-men» [1 Ti-mô-thê 1:1-2, 12-17]
Và trong một thư khác cho các con cái Chúa tại Thành Corinth, thành phố cảng thuộc miền Nam Hy lạp, ông đã tha thiết gởi đến họ lời kêu gọi:
«Vì tình yêu thương của Đấng Christ cảm động chúng tôi,…lại Ngài đã chết vì mọi người, hầu cho những kẻ còn sống không vì chính mình mà sống nữa, nhưng sống vì Đấng đã chết và sống lại cho mình…
Vậy, nếu ai ở trong Đấng Christ, thì nấy là người dựng nên mới; những sự cũ đã qua đi, nầy mọi sự đều trở nên mới. Mọi điều đó đến bởi Đức Chúa Trời, Ngài đã làm cho chúng ta nhờ Đấng Christ mà được hòa thuận lại cùng Ngài, và đã giao chức vụ giảng hòa cho chúng ta. Vì chưng Đức Chúa Trời vốn ở trong Đấng Christ, làm cho thế gian lại hòa với Ngài, chẳng kể tội lỗi cho loài người, và đã phó đạo giảng hòa cho chúng tôi. Vậy chúng tôi làm chức khâm sai của Đấng Christ, cũng như Đức Chúa Trời bởi chúng tôi mà khuyên bảo. Chúng tôi nhơn danh Đấng Christ mà nài xin anh em: hãy hòa thuận lại với Đức Chúa Trời !» [2 Cô-rinh-tô 5:14-20]
«Hãy hòa thuận lại với Đức Chúa Trời», đó vừa là lời kêu gọi, lại cũng vừa là lời giải đáp.
7. Nhưng hòa thuận lại với Đức Chúa Trời bằng cách nào?
Bằng cách cung kính và chân thành dâng lên Chúa một lời cầu nguyện có nội dung hay đại ý như sau:
Kính lạy Đức Chúa Trời là Đấng Tạo Hóa của con, là Cha Nhơn Từ của Con,
Cha ơi, con biết con là người có tội,
Cha ơi, suốt bao nhiêu năm dài tháng rộng trôi qua, ơn của Cha đối với đời con thật là biển hồ lai láng, không lời nào kể xiết,
Rồi Ngài cũng đã rút con ra khỏi một xứ sở đầy khó khăn bất trắc, để đem con đến Miền đất đượm sữa nầy,
Vậy mà con chưa hề nói với Cha một lời cảm ơn.
Cha ơi, giờ nầy con xin đến cùng Cha.
Nhưng con biết con là người có tội,
Mà Cha là Đấng Chí Thánh,
Con biết một tội nhân như con, không thể đến gần Đấng Chí Thánh như Cha được,
Nhưng Ngài đã phán trong Kinh Thánh rằng, Đức Chúa Jêsus Christ đã đến trong thế gian để chịu chết thay cho những kẻ có tội như con đây,
Và cũng để làm Của Lễ Giảng Hòa để con được hòa thuận lại với Cha,
Và Cha sẽ tiếp nhận con làm Con của Cha, trong Danh của Cứu Chúa Jêsus Christ.
Vậy giờ phút nầy đây xin Cha hãy lấy huyết của Đức Chúa Jêsus Christ, mà rửa sạch tội con,
Tha thứ cho con, và tiếp nhận con làm con của Cha, qua Của Lễ Giảng Hòa, là Đức Chúa Jêsus,
Đấng đã dâng mình chịu chết thay cho con trên thập tự giá,
Đã sống lại, và sắm sẵn cho con một chỗ trên Thiên Đàng.
Cha ơi, giờ nầy con xin mở lòng con ra, và con xin mời Ngài bước vào ngự trị,
Xin đổi mới con, tái sanh con, và ban cho con quyền phép để con trở nên con cái yêu dấu của Ngài.
Y như trong Kinh Thánh Ngài đã hứa rằng: «Nhưng hễ ai đã nhận Ngài, thì Ngài ban cho quyền phép trở nên con cái Đức Chúa Trời,
Là ban cho những kẻ tin danh Ngài,
Là kẻ chẳng phải sanh bởi khí huyết, hoặc bởi tình dục, hoặc bởi ý người,
Nhưng sanh bởi Đức Chúa Trời vậy».
Cha ơi, giờ nầy con xin Ngài vui lòng ghi tên con vào Sổ Sự Sống trên trời.
Và kể từ đây xin Ngài lấy Ơn Ngài phủ lút đời con,
Chăn nuôi con, dẫn dắt con, che chở con, và phù hộ con trong từng giây phút,
Dạy dỗ con, giúp cho con sống một cuộc đời đúng mục đích và đầy ý nghĩa,
Xứng đáng với công lao, công trình mà Ngài đã sáng tạo và cứu chuộc con.
Xin Cha ban phước cho con, và dùng cuộc đời con để làm sự phước cho nhiều người,
Và dắt đưa nhiều người đến cùng Ngài, hòa thuận lại với Ngài,
Để họ cũng được tha thứ, được cứu rỗi, được thừa hưởng Thiên Đàng y như chính mình con.
Con cầu nguyện nhơn Danh Đức Chúa Jêsus. Amen !
Trong Kinh Thánh, là Lời của Đức Chúa Trời, có một định nghĩa rất rõ về “Tội lỗi”:
«Tội lỗi là sự trái luật pháp» [1 Giăng 3:4].
Chữ «Luật pháp» đây là một chữ đặc biệt, một thuật ngữ, để chỉ cho Luật đạo đức của Ngài, tức là những luật lệ, giới mạng, và điều răn của Ngài được chép trong một quyển sách mà Ngài ban cho loài người để loài người sống theo, là quyển Kinh Thánh.
Còn sự «trái luật pháp» ở đây thì bao gồm cả hai mặt: Một mặt, «trái luật pháp» có nghĩa là làm những điều gì Kinh Thánh cấm. Mặt khác, «trái luật pháp» cũng có nghĩa là không làm những điều gì Kinh Thánh truyền phải làm.
Phạm vi của tội còn được Luật pháp Thiên Chúa mở rộng ra tới việc ta bỏ qua những việc phải, những việc lành, những việc đáng làm. Những việc nầy, thường thì dầu nếu ta không làm thì loài người cũng không thể trách, vì là những việc do sự tình nguyện. Trong Luật đời rất hiếm có trường hợp một người bị Tòa án buộc tội vì không làm một việc lành nào đó, trừ ra những trường hợp «cố ý trốn tránh» một cách tàn nhẫn và rất hiển nhiên. Nhưng vì Thiên Chúa là Đấng thấu suốt động cơ lòng người, và thông hiểu mọi hoàn cảnh tình huống, nên Luật pháp Ngài tuyên bố :
«Vậy ai biết điều đúng, đáng phải làm, mà không làm là có tội.» [Gia-cơ 4:17]
Và còn hơn thế nữa, phạm vi của tội còn được Luật pháp Thiên Chúa mở rộng ra tới sự phạm tội trong lòng hay trong tư tưởng, là điều mà Luật đời hoàn toàn không thể chạm tới. Trong một tuyên bố mà về sau trở thành một phần của Hiến Pháp Nước Thiên Đàng, Đức Chúa Jêsus phán:
«Các ngươi có nghe lời phán cho người xưa rằng: Ngươi chớ giết ai; và rằng: Hễ ai giết người thì đáng bị tòa án xử đoán. Song ta phán cho các ngươi: Hễ ai giận anh em mình thì đáng bị tòa án xử đoán …Các ngươi có nghe lời phán rằng: Ngươi chớ phạm tội tà dâm. Song ta phán cho các ngươi biết: Hễ ai ngó đàn bà mà động tình tham muốn, thì trong lòng đã phạm tội tà dâm cùng người rồi.» [Ma-thi-ơ 5:21-30].
2. Vậy nếu một người chưa bao giờ đọc Kinh Thánh, thì hóa ra chẳng có thể biết gì về tội lỗi sao?
Kinh Thánh dạy rằng khi Đức Chúa Trời dựng nên loài người thì Ngài cũng đặt trong lòng họ một bộ luật thiên nhiên, tức là một «lòng lành», mà tiếng Hán Việt gọi là «Lương tâm» (lương là lành, tâm là lòng), còn trong Triết học thì gọi là «Ý thức đạo đức». Chính sự phê phán của Lương tâm, hay của Ý thức đạo đức trong mỗi một người, khiến người ta cảm biết mình có tội hay không, và cũng khiến cho người đó cảm thấy cắn rứt nếu đã phạm tội.
Kinh Thánh chép :
«Vả, dân ngoại vốn không có luật pháp, khi họ tự nhiên làm những việc luật pháp dạy biểu, thì những người ấy dầu không có luật pháp, cũng tự nên luật pháp cho mình. Họ tỏ ra rằng việc mà luật pháp dạy biểu đã ghi trong lòng họ: chính lương tâm mình làm chứng cho luật pháp, còn ý tưởng mình khi thì cáo giác mình, khi thì binh vực mình» [Rô-ma 2:14-15]
Tuy nhiên, Lương tâm vốn chỉ là một bộ luật rất sơ khai, sơ đẳng. Lại sau khi con người đã sa ngã, phạm tội, bản chất đạo đức thay đổi, thì ý thức đạo đức cũng bị thay đổi theo. Các nhà Thần học cho rằng Lương tâm nhân loại sa ngã đã là một tấm kiếng bể vụn, không còn phản ảnh trung thực bản tánh đạo đức của Đấng Sáng Tạo, tức là của Thiên Chúa được nữa.
Vả lại, với những người cứ miệt mài trong tội lỗi, những người bị nhồi nhét bởi những triết lý cao ngạo, «trong lý tưởng hư không, lòng ngu dốt đầy những sự tối tăm» [Rô-ma 1:21] hoặc những người bị ma quỉ lừa dối, bị «chúa đời nầy đã làm mù lòng» [2 Cô-rinh-tô 4:4], thì lương tâm có thể bị chai lì, hoặc bị sự tối tăm phủ lấp, mà làm những việc «vô lương tâm».
Cho nên, thực tế mà nói, trong sự ý thức về Tội lỗi, tuy Lương tâm có đóng một vai trò nhứt định, song chỉ có sự phán quyết của Kinh Thánh mới thật sự là chính xác và đầy đủ.
Và đây cũng là một trong những lý do khiến cho những con cái của Đức Chúa Trời, bất chấp mọi sự khó khăn, cực nhọc, hiểu lầm…cứ bền chí và sốt sắng ra đi rao báo Tin Lành Cứu Rỗi và Lời Hằng Sống của Ngài cho những người chưa được nghe, và những người chưa được cứu.
3. Phải chăng các tội đều bằng nhau, hay có tội nào là nặng hơn mọi tội khác ?
(1) Thứ nhứt, tất nhiên không thể nói các tội đều bằng nhau. Kinh Thánh cho biết : «Có tội đến nỗi chết…mà cũng có tội không đến nỗi chết». [1 Giăng 5:17].
(2) Thứ hai, tội lỗi là phạm những điều Kinh Thánh cấm, và chính lương tâm cũng lên án như : giết người, tà dâm, trộm cắp, làm chứng dối, tham lam…
Nhưng có một tội nặng hơn mọi tội khác !
Tội nặng hơn mọi tội khác, là tội gốc dẫn đến mọi tội, đó là tội phạm đầu tiên mà con người đã phạm khi họ còn ở trong vườn Ê-đen, và đồng thời cũng là tội đầu tiên mà Đức Chúa Trời nghiêm cấm trong điều răn đầu tiên của «Mười Điều Răn», rằng:
«Trước mặt ta, ngươi chớ có các thần khác» [Xuất Ê-díp-tô Ký 20:3]
Đây là tội phản bội Ngài, đứng về phía kẻ thù của Ngài, xây lưng lại với Ngài, và đi theo ma quỉ. Tội nầy khiến cho loài người vốn là «con» và «dòng dõi» của Ngài [Lu-ca 3:38, Công-vụ các Sứ-đồ 17:28-29], trở thành «con bội nghịch» và «con của sự thạnh nộ» [Ê-phê-sô 2:1-3].
Tội nầy nặng đến nỗi đấng tiên tri ngày xưa, đã phải kêu cả trời và đất ra để làm chứng, để con người có thể cảm nhận được một phần nào tính cách trầm trọng của tội phạm:
«Hỡi các từng trời, hãy nghe; hỡi đất, hãy lắng tai; vì Đức Chúa Trời có phán rằng: Ta đã nuôi nấng con cái, trưởng dưỡng chúng nó, song chúng nó dấy loạn nghịch cùng ta. Bò biết chủ mình, lừa biết máng của chủ; song Y-sơ-ra-ên chẳng hiểu biết, dân ta chẳng suy nghĩ. Ôi! nước mắc tội, dân mang lỗi nặng nề, tông giống độc dữ, con cái làm bậy bạ kia! Chúng nó đã lìa bỏ Đức Chúa Trời, khinh lờn Đấng Thánh của Y-sơ-ra-ên, đã trở nên xa lạ và lui đi.» [Ê-sai 1:2-4]
Dầu trên đây là lời trách cứ dân tộc Israel, một dân tộc từng được Đức Chúa Trời chọn lựa, ban phước và sử dụng để đưa Kinh Thánh và đưa Đấng Cứu Thế vào trong thế gian, song lời trách đó vẫn đúng cho mọi dân tộc khác, và nói rộng ra, cho cả nhân loại. Thật ra, ngay cả ở Việt nam ngày xưa, cũng đã từng có người trách rằng :
«Ăn cơm Trời, uống nước Trời, thở khí Trời, sinh ra ở đời được nguyên tuyền toàn vẹn nhờ Trời, mặt mày tốt đẹp, thông minh khôn sáng nhờ Trời cho, bình yên mạnh khỏe nhờ Trời, lâm nguy, tai nạn kêu Trời, sống nhờ Trời, chết chầu Trời, mà lại đi cúi đầu để lạy tạ ơn một cái gốc cây !!!»
4. Nếu đây là tội nặng nhứt, thì hậu quả của tội nầy chắc phải là lớn lắm?
Tất nhiên rồi. Chẳng những đây là tội gốc, đẻ ra mọi tội khác, mà tội nầy cũng là nguyên nhân của tất cả mọi khổ nạn, đau đớn của loài người đương đời bây giờ, cũng như trong đời tương lai.
Tội nầy trước hết làm gãy đổ mối quan hệ Cha-Con giữa Đức Chúa Trời với con người, mà Kinh Thánh gọi là sự chết tâm linh, hay là sự hư mất. Mối quan hệ Cha-Con bị gãy đổ khiến con người rơi vào tình trạng mồ côi. Trong khi đó, cũng chính do tội nầy mà đất bị rủa sả, «sanh chông gai và cây tật lê» và người sẽ phải «làm đổ mồ hôi trán mới có mà ăn»…[Sáng-thế Ký 3:18-19]. Y hệt như một đứa trẻ mồ côi giữa chợ đời, sự việc con người luôn luôn cảm thấy côi cút, cô đơn, bất an, sợ hãi, gian truân, cực nhọc, đói khát, và phải vật lộn với cuộc mưu sinh giữa một thế giới đầy chông gai, đã là hậu quả đầu tiên của tôi phạm nầy.
Tội phạm nầy cũng đã làm biến đổi bản tánh con người, khiến con người trở nên ích kỷ và gian ác tự bề trong một cách triệt để. Kinh Thánh ký thuật thể nào vừa sau khi phạm tội, hai ông bà A-đam đã chối trách nhiệm, và đổ lỗi cho nhau. Rồi đến việc hai con trai của ông bà giết nhau vì ghen tức, rồi đến thù oán, đa thê, và xung đột. Xung đột cá nhân, xung đột gia đình, xung đột cộng đồng, xung đột quốc gia, chiến tranh thế giới…
Rồi đến «Sống là tranh đấu». Con người tranh đấu với thiên nhiên -thiên nhiên bây giờ đã vì tội lỗi mà trở nên khắc nghiệt-, và tranh đấu với chính con người. Con người trở thành một con thú gây sợ hãi lớn nhứt cho chính con người. Hay thậm chí, một số người, như Triết gia Hiện sinh Vô thần Jean Paul Sartre chẳng hạn, còn cảm thấy rằng, người nầy chính là địa ngục của người kia, «L'enfer c'est les autres».
Ngoài «sự chết thuộc linh» tức là sự gãy đổ mối quan hệ Cha-Con giữa Thiên Chúa với con người như đã nói trên, tội lỗi nầy, một cách chắc chắn, còn đem đến hai sự chết khác nữa: Một là sự chết thuộc thể, và hai là sự chết đời đời.
Về «Sự chết thuộc thể», tức là sự phân rẽ giữa linh hồn và thể xác, Kinh Thánh tuyên bố rất rõ ràng và rất dứt khoát, rõ ràng và dứt khoát y như chính sự chết nầy vậy:
«Theo như đã định cho loài người, phải chết một lần, rồi chịu phán xét,» [Hê-bơ-rơ 9:27]
Tùy theo sự chọn lựa của mỗi người lúc còn sống, không đầy năm giây đồng hồ sau khi linh hồn của mỗi người lìa khỏi thể xác, linh hồn đó, hoặc sẽ được nghênh tiếp vào sự hiện diện vinh quang và phước hạnh của Chúa nơi Paradis, hoặc sẽ bị đưa đến chốn hình khổ, để ở đó chờ đợi cho đến «Ngày Phán Xét Cuối Cùng». Đây sẽ là lúc mọi sự xảy ra theo như sự mặc thị mà Sứ đồ Giăng đã nhận được từ chính Đức Chúa Jêsus Christ trên đảo Patmos, trong biển Địa trung hải:
«Bấy giờ tôi thấy một tòa lớn và trắng cùng Đấng đang ngồi ở trên; trước mặt Ngài trời đất đều trốn hết, chẳng còn thấy chỗ nào cho nó nữa. Tôi thấy những kẻ chết, cả lớn và nhỏ, đứng trước tòa, và các sách thì mở ra. Cũng có mở một quyển sách khác nữa, là sách sự sống; những kẻ chết bị xử đoán tùy công việc mình làm, cứ như lời đã biên trong những sách ấy. Biển đem trả những người chết mình chứa; Sự chết và Âm phủ cũng đem trả những người chết mình có. Mỗi người trong bọn đó bị xử đoán tùy công việc mình làm. Đoạn, Sự Chết và Âm phủ bị quăng xuống hồ lửa. Hồ lửa là sự chết thứ hai. Kẻ nào không được biên vào sách sự sống đều bị ném xuống hồ lửa.» [Khải-huyền 20:11-15]
Sự chết thứ hai trong hồ lửa ở đây còn gọi là Sự chết đời đời.
Như vậy, tóm tắt lại, y như lời Kinh Thánh đã phán: «Một mai ngươi ăn (tức là ngươi bất tuân, phạm tội) chắc sẽ chết [Sáng-thế Ký 2:17] và «Tiền công của tội lỗi là sự chết» [Rô-ma 6:23], tội lỗi đầu tiên và lớn nhứt của loài người đã đem đến 3 sự chết: sự chết thuộc linh, sự chết thuộc thể, và sự chết đời đời, cùng với tất cả mọi hệ lụy ghê ghớm, kinh hoàng của nó.
5. Nhưng tại sao tôi lại phải chịu trách nhiệm về tội của người đời xưa ?
Về phương diện tội phạm, chúng ta vẫn bị kể là có tội, dù là gián tiếp phạm tội hay trực tiếp phạm tội, dù là đồng phạm hay chánh phạm, dù là tòng phạm hay chủ mưu. Vậy, nếu hiện nay chúng ta đang nhận ánh mặt trời soi sáng của Ngài, đang thở không khí của Ngài ban cho, mà chưa một lời tạ ơn, và vẫn đang xây lưng lại với Ngài, không biết gì đến Ngài là Đấng Sáng Tạo, là Cha Yêu Thương chúng ta, thì chúng ta đang phạm tội, y như tổ phụ của chúng ta.
Hơn nữa theo sự dạy dỗ của Kinh Thánh, riêng về tội đầu tiên nầy, chúng ta không phải là gián tiếp phạm tội, mà là trực tiếp phạm tội.
???
Vâng. Chúng ta từng trực tiếp phạm tội, và phạm tội tại Vườn Ê-đen, chung và cùng một lúc với Tổ phụ A-đam, khi ông phạm tội.
Tại sao ?
Tại vì lúc ấy chúng ta tất cả đều còn ở trong ông, tức là «còn ở trong lòng tổ phụ».
Đây không phải là vấn đề lý thuyết hay là vấn đề hình bóng. Đây là một sự thực khoa học. Giữa Tổ phụ A-đam với chúng ta mang một mối liên hệ chặt chẽ hữu cơ và vật lý. Không có ông thì cũng không có chúng ta. Đây cũng là lý do mà chữ A-đam trong ngôn ngữ của Kinh Thánh Cựu Ước, vừa là tên riêng của Tổ phụ chúng ta, vừa có nghĩa là một «người đàn ông», lại vừa cũng có nghĩa là cả «loài người».
Kinh Thánh sách Hê-bơ-rơ chương thứ 7 đã làm sáng tỏ lẽ thật nầy khi kể lại rằng Áp-ra-ham, một ngày kia khi đi đánh giặc thắng trận trở về, có Vua Mên-chi-xê-đéc là vua của Thành Sa-lem, mà ngày nay là Jerusalem, ra đón mừng, đãi tiệc, và chúc phước cho. Còn về phần mình, Áp-ra-ham, cũng lấy một phần mười về mọi chiến lợi phẩm mà dâng cho vua đó.
Vào thời điểm dâng hiến cho Mên-chi-xê-đéc, Vua Salem, Áp-ra-ham thật ra cũng chưa có con, và vẫn còn mang tên là Áp-ram, nghĩa là Cha cao quý, chớ chưa phải là Áp-ra-ham, nghĩa là cha của nhiều dân tộc. Vậy đó mà Kinh Thánh Tân Ước về sau dạy rằng khi Áp-ra-ham dâng phần mười cho Mên-chi-xê-đéc, Vua Salem, thì cháu cố của ông, tên là Lê-vi, một trong 12 Tổ phụ của Dân Israel, cũng đã cùng dâng phần mười với ông cố minh, Áp-ra-ham, tại vì lúc đó Lê-vi đang «ở trong lòng tổ phụ». [Hê-bơ-rơ 7:10]
Vậy, trong ánh sáng của lẽ thật từ Kinh Thánh, chúng ta biết rằng, hết thảy chúng ta hôm nay đều đã từng phạm về tội đầu tiên và tội nặng nề nhứt, là tội xây lưng lìa bỏ Đức Chúa Trời, là Cha, thậm chí trở nên đối nghịch với Ngài, là phạm một cách trực tiếp chớ không phải phạm gián tiếp. Chúng ta đã phạm cùng một tội với A-đam, tại chính trong vườn Ê-đen, vì lúc đó mỗi chúng ta đương «ở trong lòng Tổ phụ» mình là A-đam.
6. Vậy thì chúng ta phải làm gì để được cứu ?
Vì tội nặng nhất, lớn nhất, trước nhất, là tội hiện nay đang dẫn chúng ta đến sự chết đời đời, là việc xây lưng lìa bỏ Đức Chúa Trời, nên chúng ta cần phải giải quyết tội nầy trước hết.
Và nếu xây lưng lìa bỏ Đức Chúa Trời là tội, thì giải pháp duy nhứt cho tội nầy là xây mặt lại với Ngài, là quay trở về cùng Ngài.
Xin hãy nghe sau đây, những lời của Đức Chúa Trời tha thiết kêu gọi:
«Hãy tìm kiếm Chúa đang khi mình gặp được;
Hãy kêu cầu Ngài đang khi Ngài ở gần!
Kẻ ác khá bỏ đường lối mình,
Người bất nghĩa khá bỏ các ý tưởng;
Hãy trở lại cùng Chúa, Ngài sẽ thương xót cho,
Hãy đến cùng Đức Chúa Trời chúng ta, vì Ngài tha thứ dồi dào»
[Ê-sai 55:6-7]
Phao lô, một học giả và lãnh tụ tôn giáo Do thái, đã từng có thời chống đối đạo Tin Lành quyết liệt, vì ông cho là lừa dối. Chẳng những chống đối bằng sự ngăn chận, ông còn tổ chức giết hại và truy đuổi những người tin theo Đức Chúa Jêsus khắp mọi nơi.
Nhưng một ngày kia đang khi trên đường đi từ thành Jerusalem đến thành Damascus, thủ đô của nước Syria ngày nay, để bắt bớ các tín nhân, chính Đức Chúa Jêsus đã hiện ra gặp ông, và kể từ đó, tấm lòng, tâm trí, và cả đời sống ông đã hoàn toàn thay đổi [Công-vụ các Sứ-đồ 9:3-9, 1Cô-rinh-tô 9:1, 15:8].
Ông đã quay trở lại cùng Ngài, và dâng cả quảng đời còn lại để làm một giáo sĩ, chịu bao nhiêu điều hiểm nguy khổ nạn, trải qua khắp Tây Á và Nam Âu để rao truyền Ơn Cứu Rỗi của Đức Chúa Trời, và kêu gọi mọi người hãy hòa thuận lại với Cha mình, qua «Của Lễ Giảng Hòa», là sự chết chuộc tội của Cứu Chúa Jêsus.
Trong một bức thư gởi cho Mục sư Timothy, con tinh thần của ông, ông viết:
«Ta cảm tạ Đấng ban thêm sức cho ta, là Đức Chúa Jêsus Christ, Chúa chúng ta, về sự Ngài đã xét ta là trung thành, lập ta làm kẻ giúp việc; ta ngày trước vốn là người phạm thượng, hay bắt bớ, hung bạo, nhưng ta đã đội ơn thương xót, vì ta đã làm những sự đó đang lúc ta ngu muội chưa tin. Ân điển của Chúa chúng ta đã dư dật trong ta, với đức tin cùng sự thương yêu trong Đức Chúa Jêsus Christ. Đức Chúa Jêsus Christ đã đến trong thế gian để cứu vớt kẻ có tội, ấy là lời chắc chắn, đáng đem lòng tin trọn vẹn mà nhận lấy; trong những kẻ có tội đó ta là đầu. Nhưng ta đã đội ơn thương xót, hầu cho Đức Chúa Jêsus Christ tỏ mọi sự nhịn nhục của Ngài ra trong ta là kẻ làm đầu, để dùng ta làm gương cho những kẻ sẽ tin Ngài được sự sống đời đời. Nguyền xin sự tôn quí, vinh hiển đời đời vô cùng về nơi Vua muôn đời, không hề hư nát, không thấy được, tức là Đức Chúa Trời có một mà thôi! A-men» [1 Ti-mô-thê 1:1-2, 12-17]
Và trong một thư khác cho các con cái Chúa tại Thành Corinth, thành phố cảng thuộc miền Nam Hy lạp, ông đã tha thiết gởi đến họ lời kêu gọi:
«Vì tình yêu thương của Đấng Christ cảm động chúng tôi,…lại Ngài đã chết vì mọi người, hầu cho những kẻ còn sống không vì chính mình mà sống nữa, nhưng sống vì Đấng đã chết và sống lại cho mình…
Vậy, nếu ai ở trong Đấng Christ, thì nấy là người dựng nên mới; những sự cũ đã qua đi, nầy mọi sự đều trở nên mới. Mọi điều đó đến bởi Đức Chúa Trời, Ngài đã làm cho chúng ta nhờ Đấng Christ mà được hòa thuận lại cùng Ngài, và đã giao chức vụ giảng hòa cho chúng ta. Vì chưng Đức Chúa Trời vốn ở trong Đấng Christ, làm cho thế gian lại hòa với Ngài, chẳng kể tội lỗi cho loài người, và đã phó đạo giảng hòa cho chúng tôi. Vậy chúng tôi làm chức khâm sai của Đấng Christ, cũng như Đức Chúa Trời bởi chúng tôi mà khuyên bảo. Chúng tôi nhơn danh Đấng Christ mà nài xin anh em: hãy hòa thuận lại với Đức Chúa Trời !» [2 Cô-rinh-tô 5:14-20]
«Hãy hòa thuận lại với Đức Chúa Trời», đó vừa là lời kêu gọi, lại cũng vừa là lời giải đáp.
7. Nhưng hòa thuận lại với Đức Chúa Trời bằng cách nào?
Bằng cách cung kính và chân thành dâng lên Chúa một lời cầu nguyện có nội dung hay đại ý như sau:
Kính lạy Đức Chúa Trời là Đấng Tạo Hóa của con, là Cha Nhơn Từ của Con,
Cha ơi, con biết con là người có tội,
Cha ơi, suốt bao nhiêu năm dài tháng rộng trôi qua, ơn của Cha đối với đời con thật là biển hồ lai láng, không lời nào kể xiết,
Rồi Ngài cũng đã rút con ra khỏi một xứ sở đầy khó khăn bất trắc, để đem con đến Miền đất đượm sữa nầy,
Vậy mà con chưa hề nói với Cha một lời cảm ơn.
Cha ơi, giờ nầy con xin đến cùng Cha.
Nhưng con biết con là người có tội,
Mà Cha là Đấng Chí Thánh,
Con biết một tội nhân như con, không thể đến gần Đấng Chí Thánh như Cha được,
Nhưng Ngài đã phán trong Kinh Thánh rằng, Đức Chúa Jêsus Christ đã đến trong thế gian để chịu chết thay cho những kẻ có tội như con đây,
Và cũng để làm Của Lễ Giảng Hòa để con được hòa thuận lại với Cha,
Và Cha sẽ tiếp nhận con làm Con của Cha, trong Danh của Cứu Chúa Jêsus Christ.
Vậy giờ phút nầy đây xin Cha hãy lấy huyết của Đức Chúa Jêsus Christ, mà rửa sạch tội con,
Tha thứ cho con, và tiếp nhận con làm con của Cha, qua Của Lễ Giảng Hòa, là Đức Chúa Jêsus,
Đấng đã dâng mình chịu chết thay cho con trên thập tự giá,
Đã sống lại, và sắm sẵn cho con một chỗ trên Thiên Đàng.
Cha ơi, giờ nầy con xin mở lòng con ra, và con xin mời Ngài bước vào ngự trị,
Xin đổi mới con, tái sanh con, và ban cho con quyền phép để con trở nên con cái yêu dấu của Ngài.
Y như trong Kinh Thánh Ngài đã hứa rằng: «Nhưng hễ ai đã nhận Ngài, thì Ngài ban cho quyền phép trở nên con cái Đức Chúa Trời,
Là ban cho những kẻ tin danh Ngài,
Là kẻ chẳng phải sanh bởi khí huyết, hoặc bởi tình dục, hoặc bởi ý người,
Nhưng sanh bởi Đức Chúa Trời vậy».
Cha ơi, giờ nầy con xin Ngài vui lòng ghi tên con vào Sổ Sự Sống trên trời.
Và kể từ đây xin Ngài lấy Ơn Ngài phủ lút đời con,
Chăn nuôi con, dẫn dắt con, che chở con, và phù hộ con trong từng giây phút,
Dạy dỗ con, giúp cho con sống một cuộc đời đúng mục đích và đầy ý nghĩa,
Xứng đáng với công lao, công trình mà Ngài đã sáng tạo và cứu chuộc con.
Xin Cha ban phước cho con, và dùng cuộc đời con để làm sự phước cho nhiều người,
Và dắt đưa nhiều người đến cùng Ngài, hòa thuận lại với Ngài,
Để họ cũng được tha thứ, được cứu rỗi, được thừa hưởng Thiên Đàng y như chính mình con.
Con cầu nguyện nhơn Danh Đức Chúa Jêsus. Amen !